Đến ngày 5-11-2011 tôi đến công ty nhận trợ cấp thì công ty chỉ trả cho tôi hơn 400.000 đồng và nói rằng tôi chỉ được hưởng trợ cấp thôi việc. Vậy xin các luật sư cho tôi biết công ty chi trả như vậy là đúng hay sai luật? Ngoài ra tôi có thể kiện công ty vì cho tôi nghỉ không có lý do chính đáng mà không bồi thường cho tôi không?
(Vien Tran)
- Do các thông tin của bạn cung cấp chưa chính xác và không đầy đủ nên chúng tôi xin đưa ra hai tình huống để bạn tham khảo:
1. Trường hợp được trợ cấp mất việc làm:
(a) Theo quy định tại điều 17 Bộ luật lao động đã được sửa đổi, bổ sung (BLLĐ), điều 11 Nghị định 39/2003/NĐ-CP ngày 18-4-2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về việc làm, trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên bị mất việc làm, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết được việc làm mới, phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng 2 tháng lương.
(b) Những trường hợp được coi là thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ theo quy định tại điều 17 BLLĐ, điều 11 Nghị định 39/2003/NĐ-CP ngày 18-4-2003 của Chính phủ.
- Thay đổi một phần hoặc toàn bộ máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ tiên tiến có năng suất cao hơn.
- Thay đổi sản phẩm hoặc cơ cấu sản phẩm dẫn đến sử dụng lao động ít hơn.
- Thay đổi cơ cấu tổ chức: sáp nhập, giải thể một số bộ phận của đơn vị.
Những thay đổi trên dẫn đến người lao động mất việc làm thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại nghề cho người lao động để sử dụng vào công việc mới. Nếu không giải quyết được việc làm mới mà phải cho người lao động thôi việc thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp mất việc làm theo quy định.
(c) Tiền trợ cấp mất việc làm được quy định tại điều 17 BLLĐ, điều 12 Nghị định 39/2003/NĐ-CP ngày 18-4-2003 của Chính phủ, điều 1 Thông tư 39/2009/TT-BLĐTBXH ngày 18-11-2009 của Bộ Lao động - thương binh và xã hội. Mức trợ cấp mất việc làm thấp nhất bằng hai tháng lương, trừ trường hợp thời gian để tính trợ cấp mất việc làm của người lao động làm dưới một tháng.
Lưu ý: thời gian người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp không được tính để hưởng trợ cấp mất việc làm.
Theo những thông tin mà bạn đã cung cấp, thì công ty thông báo chấm dứt hợp đồng vì lý do sắp xếp lại cơ cấu nhân sự, nếu công ty thật sự có việc thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ theo quy định mà chúng tôi đã trình bày ở trên và công ty cũng đã thực hiện đúng và đầy đủ các bước nhưng buộc vẫn phải cho người lao động thôi việc, thì công ty có trách nhiệm trả trợ cấp mất việc làm theo mức mà chúng tôi đã trình bày, mức trợ cấp mất việc làm thấp nhất bằng hai tháng lương, trừ trường hợp thời gian để tính trợ cấp mất việc làm của người lao động làm dưới một tháng.
Nếu bạn thấy lý do công ty cho bạn thôi việc không đúng hoặc mức trợ cấp hơn 400.000 đồng không đúng theo quy định tại điều 17 BLLĐ, điều 12 Nghị định 39/2003/NĐ-CP ngày 18-4-2003 của Chính phủ, điều 1 thông tư 39/2009/TT-BLĐTBXH ngày 18-11-2009 mà chúng tôi đã trình bày, thì bạn có quyền khởi kiện thẳng ra tòa án nhân dân quận/huyện nơi công ty bạn có trụ sở chính để bảo vệ quyền và lợi ích của mình mà không phải qua hòa giải tại cơ sở.
2. Trường hợp được hưởng trợ cấp thôi việc:
(a) Theo quy định tại điều 42 BLLĐ, điều 14 Nghị định 44/2003/NĐ-CP ngày 9-3-2003 của Chính phủ, khoản 3 mục III thông tư 21/2003/TT-BLĐTBXH ngày 22-9-2003, điều 2 thông tư 17/2009/TT-BLĐTBXH ngày 26-5-2009 của Bộ Lao động - thương binh và xã hội, khi chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ đủ 12 tháng trở lên, người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là 1/2 tháng lương cộng với phụ cấp lương, nếu có.
Khi chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại điểm a và b khoản 1 điều 85 BLLĐ (người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp; người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm) thì người lao động không được trả trợ cấp thôi việc.
Lưu ý: thời gian người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp không được tính để hưởng trợ cấp thôi việc.
(b) Theo những thông tin mà bạn cung cấp, thì giữa bạn và công ty không thuộc trường hợp thỏa thuận nào chấm dứt hợp đồng lao động theo khoản 3 điều 36 BLLĐ cũng như bạn không hề đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo điều 37 BLLĐ, trường hợp này công ty chỉ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao đồng với bạn trong những trường hợp sau đây theo quy định tại khoản 1 điều 38 BLLĐ và điều 12 Nghị định 44/2003/NĐ-CP ngày 9-3-2003 của Chính phủ:
- Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng nghĩa là người lao động không hoàn thành định mức lao động hoặc nhiệm vụ được giao do yếu tố chủ quan, và bị lập biên bản nhắc nhở bằng văn bản ít nhất hai lần trong một tháng mà sau đó vẫn không khắc phục.
Mức độ không hoàn thành công việc được ghi trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động của đơn vị.
- Người lao động bị kỷ luật sa thải theo quy định tại điều 85 BLLĐ, bao gồm:
+ Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;
+ Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm;
+ Người lao động tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng.
- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ốm đau đã điều trị 12 tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng ốm đau đã điều trị sáu tháng liền, và người lao động làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng ốm đau đã điều trị quá nửa thời hạn hợp đồng lao động mà khả năng lao động chưa hồi phục;
- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng (là trường hợp do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ cấp tỉnh trở lên, do địch họa, do dịch bệnh) mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất kinh doanh, giảm chỗ làm việc;
- Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động.
Trong trường hợp của bạn, nếu không thuộc các trường hợp người sử dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hoặc nếu thuộc các trường hợp trên mà người sử dụng lao động không tuân thủ thời hạn báo trước (trừ trường hợp người lao động bị kỷ luật sa thải theo điều 85 BLLĐ, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
(i) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn; (ii) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng; (iii) Ít nhất ba ngày đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng), thì công ty của bạn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bạn trái pháp luật.
Bạn có quyền khởi kiện thẳng ra tòa án nhân dân quận/huyện nơi công ty bạn có trụ sở mà không phải qua hòa giải tại cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận