Mỗi dịp 27-7, hàng ngàn ngọn nến tri ân lại được các bạn trẻ Quảng Trị thắp lên tại nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn - Ảnh: QUỐC NAM
Đó là một đoạn trong thơ tôi viết về em mình, người em liệt sĩ đến giờ vẫn chưa tìm được mộ phần!
1 Em trai tôi, liệt sĩ Dương Xuân Việt, đã hy sinh ở chiến trường Quảng Trị năm 1972. Cho đến tận giờ, gia đình tôi vẫn chưa tìm thấy phần mộ em, vẫn không biết em hy sinh ngày tháng nào, vì trong giấy báo tử gửi về cho gia đình cũng chỉ ghi: Liệt sĩ Dương Xuân Việt đã anh dũng hy sinh vì Tổ quốc ở chiến trường Quảng Trị năm 1972 cùng với tấm huân chương.
Cứ đến Ngày thương binh liệt sĩ 27-7 hằng năm, gia đình tôi coi như là ngày giỗ của em tôi!
Năm em tôi mới 17 tuổi, lúc đó tôi đang học ĐH Tổng hợp khoa văn năm thứ nhất sơ tán tại Đại Từ (Bắc Thái cũ, nay là Thái Nguyên) thì được gia đình báo tin em tôi nhập ngũ.
Sau này, gia đình mới cho biết vì chưa đến tuổi tòng quân, em tôi Dương Xuân Việt đã ra sau vườn hái một cái gai mây, đâm vào đầu ngón tay, rồi lấy máu mình viết lá đơn tình nguyện xin vào bộ đội, vào chiến trường chiến đấu. Tôi nghe nói lá đơn tình nguyện viết bằng máu đó còn lưu giữ ở bảo tàng quân khu thì phải...
Đất nước hòa bình, một ngày tôi trở lại Quảng Trị, đi bằng tàu hỏa từ ga Hàng Cỏ và có Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết lúc bấy giờ cùng nhiều nhà báo, nhà văn, nhà thơ.
Vợ chồng tôi, nhà văn Chu Lai, nhà thơ Trần Đăng Khoa cùng một khoang tàu. Trần Đăng Khoa nằm giường trên, nhà văn Chu Lai nằm giường dưới, vợ chồng tôi nằm hai giường bên cạnh.
Chúng tôi vừa đặt hành lý xuống, kéo rèm cửa sổ thì Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến: "Xin chào các nhà thơ, nhà văn, chào nhà văn ăn mày dĩ vãng". Chủ tịch nước thân tình ôm lấy Chu Lai.
Nhà văn Chu Lai mời ông Nguyễn Minh Triết ngồi xuống giường. Câu chuyện xoay quanh những ngày gian khổ ở chiến trường với nhiều kỷ niệm khó quên...
Sau khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bắt tay chúng tôi trở về khoang tàu của mình, Trần Đăng Khoa say sưa kể chuyện nghĩa trang Trường Sơn. Chuyện Khoa kể thật ly kỳ và đầy ắp cảm xúc.
Chuyện người gác cổng nghĩa trang vào những đêm trăng sáng đã nghe được tiếng bước chân rầm rập của những người lính trẻ, nghe tiếng nói cười, tiếng hát cất lên... giữa nghĩa trang vắng lặng không một bóng người...
2 Suốt đêm ấy, tôi chẳng thể nào ngủ được. Có lẽ vì đã lâu, hơn 20 năm nay tôi mới đi tàu Thống Nhất, cũng có thể do mùi thuốc lào. Chu Lai mang theo điếu cày, tuy mỗi lần hút, anh đi ra khỏi khoang nằm, nhưng mùi thuốc lào vẫn quyện vào đâu đó.
Cũng có thể do tiếng ngáy của nhà văn "ăn mày dĩ vãng" hay những câu chuyện linh thiêng mà Khoa kể về những linh hồn chiến sĩ bất tử.
Độ 3h sáng, tôi lặng lẽ ngồi dậy, kéo cửa, đi ra hành lang con tàu. Con tàu đã đi vào địa giới tỉnh Quảng Trị. Thật lạ lùng, tôi như nghe thấy tiếng những người lính trẻ đang hát, đang hò trong đêm khi tàu đi qua những vùng đất mà trước đây là những cứ điểm mịt mù khói lửa.
Trong màn đêm, tôi cố tìm những đốm sáng nhỏ phía ngoài con tàu để hình dung về những miền đất mình đã đi qua. Những năm chiến tranh, tôi cũng là người lính. Một trắc thủ phát lệnh tên lửa thuộc tiểu đoàn 61 Đoàn tên lửa Sông Đà.
Đột nhiên, loang loáng ngoài cửa sổ con tàu như có bóng người đang vẫy theo. Tôi bỗng nhớ về hình ảnh đứa em trai mình, Dương Xuân Việt...
Cho đến bây giờ, nhiều khi tôi vẫn nghĩ em còn sống, còn ở đâu đó trên đất nước mình, nhất là vào những ngày lễ lớn như 30-4, bởi vì phần mộ em cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa tìm thấy.
Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cùng các nhà văn, nhà thơ trên chuyến tàu hỏa vào viếng thăm nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn - Ảnh tư liệu D.X.N.
3 Buổi sáng, chúng tôi vào dâng hương ở nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9. Hàng vạn liệt sĩ đã vĩnh viễn nằm lại nơi này.
Tôi nghĩ tới một câu thơ của Nguyễn Hữu Quý: "Chân hương nhiều như đồng đội ngày xưa". Tôi tìm đến khu mộ của chiến sĩ vô danh. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đang thắp hương ở đó. Khói hương trầm mặc giữa buổi trưa nóng bỏng gió Lào.
Tại thành cổ, Chủ tịch nước thỉnh chuông. Đặt vòng hoa và dâng hương tại đài tưởng niệm, nhiều người rưng rưng nước mắt. Từ thành cổ, chúng tôi đi bộ ra bờ sông Thạch Hãn. Nắng như đổ lửa. Một mảng bè được ghép cạnh bờ sông.
Vợ chồng tôi bước chân lên mảng bè ghép tạm. Chông chênh. Chừng ấy con người trên tấm bè đơn sơ làm sao chịu nổi!
Tôi nghe ai đó kêu: "Cẩn thận, xuống bè từng người thôi". Ai cũng muốn thả một nhành hoa xuống dòng sông Thạch Hãn cho hương hồn những người lính trẻ được yên nghỉ vĩnh hằng.
Chiếc bè chòng chành ngỡ như sắp chìm xuống dòng sông dưới sức nặng của hàng trăm con người. Có lẽ linh hồn những người lính trẻ đã đỡ cho tấm bè vững chãi!
Chợt nảy ra ý nghĩ, em trai tôi đang nằm dưới dòng sông này chăng? Tôi bứt mấy cánh hoa huệ thả xuống. Những bông hoa trắng trinh nguyên phút chốc chìm vào sông nước. Tôi đứng lặng đi...
Còn vợ tôi quay đi lau nước mắt.
Suốt một đêm không ngủ và một ngày đi thắp hương tưởng niệm dưới cái nắng hè như đổ lửa của miền Trung, tôi cũng thấy lạ, cứ như mình đang ở tuổi hai mươi! Khi lên tàu trở về Hà Nội, Trần Đăng Khoa bảo tôi: "Ông khỏe đấy, có lẽ nhờ cậu em phù hộ".
Mới đây, vợ chồng tôi cùng đứa cháu nội vào thăm và ăn cơm với gia đình cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại nhà vườn của ông ở Bình Dương. Ông hỏi vợ chồng tôi đã tìm được mộ cậu em trai chưa.
Tôi đã nhiều lần vào Quảng Trị, vào miền Trung, nhờ bạn bè tìm mộ người em trai, nhưng mấy chục năm qua vẫn chưa tìm được. Càng đi, tôi càng hiểu nghĩa tình của người dân đối với các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc.
Và trong tôi bỗng ngân lên những câu thơ, trong bài thơ tôi đã viết về người em trai mình:
Di ảnh liệt sĩ Dương Xuân Việt - Ảnh D.X.N.
Cho đến bây giờ, nhiều khi tôi vẫn nghĩ em còn sống, còn ở đâu đó trên đất nước mình, nhất là vào những ngày lễ lớn như 30-4, bởi vì phần mộ em cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa tìm thấy.
Mười bảy tuổi em lên đường
Chưa hề nắm tay một người con gái
Lá đơn tình nguyện em viết bằng máu của chính mình chích từ đầu ngón tay
Những ngón tay gầy, đen đúa
Buổi tối em đi ngủ xoa xoa bàn chân trần vào nùm rơm
Bát cơm trộn khoai em xẻ cho anh một nửa
Mẹ mất sớm
Ba anh em mình như ba chân kiềng tựa vào nhau
Trước gió bão cuộc đời trôi dạt
Giờ em nằm nơi đâu trong đất lành Tổ quốc
Anh đi tìm phần mộ em suốt mấy chục năm trời
Anh đi tìm nắm đất - cuộc đời em chỉ gặp toàn kỷ niệm
Đứa em trai hay cười
Năm hạn hán mất mùa
Em kéo cày cho anh cày ruộng
Đêm đập lúa hò khoan
Trưa tắm sông em làm con rái cá
Ngụp lặn trong dòng nước phù sa đục ngầu
Tháng ba mưa rào sấm ran đồng lúa
Anh em mình đi bắt cá rô ron...
Giờ em nằm nơi đâu ở nghĩa trang Trường Sơn
Ở thành cổ Quảng Trị
Gió Lào thổi héo cỏ cây
Thổi rát mặt người, bụi mù đất đỏ
Anh bỗng nhận ra rằng
Em như muôn vàn người lính vô danh
Đến nắm đất - đời mình cũng không để lại
Đứa em trai hay cười
Để bây giờ anh đọc câu thơ của người xưa mà trào nước mắt
CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI
(Xưa nay ra trận mấy ai về)...
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận