Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất

PHAN BẢO 01/03/2025 07:31 GMT+7

TTCT - Hóa ra tiếng mẹ đẻ - ngôn ngữ đầu tiên mà ta biết trong đời - không ở trong bộ nhớ mãi mãi, mà vẫn có thể mai một nếu ít được sử dụng.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 1.

Ảnh: UN

Chuyện người di cư quên từ vựng trong ngôn ngữ mẹ đẻ, diễn đạt câu cú kỳ quặc, hay nói tiếng mẹ đẻ bằng giọng nước sở tại vốn không có gì lạ. Thách thức lớn hơn với những người đã "quên" ngôn ngữ quê nhà là làm sao truyền lại cho con cái thứ mà chính họ hầu như còn không mấy thông thạo.

Sự lãng quên không thể tránh khỏi

Theo The New York Times, trong suốt một thời gian dài, trọng tâm của ngành ngôn ngữ học hầu như chỉ xoay quanh chuyện làm thế nào học các thứ tiếng. Nhưng vài thập kỷ trở lại đây, xuất hiện một lĩnh vực nghiên cứu mới - hiện tượng suy mòn tiếng mẹ đẻ (language attrition).

Các nhà ngôn ngữ học ngộ ra rằng việc một người học nhiều ngôn ngữ thực tế không phải quá trình tích lũy, ngôn ngữ trước bổ trợ cho ngôn ngữ sau, mà giống tình trạng anh chị em trong nhà cạnh tranh để được chú ý hơn.

Trong Memory Speaks (2021), cuốn sách viết về tình trạng quên ngôn ngữ và hành trình học lại tiếng Czech thời thơ ấu, nhà ngôn ngữ học Julie Sedivy viết: "Không có độ tuổi nào mà một ngôn ngữ, ngay cả tiếng mẹ đẻ, gắn chặt vào não đến mức không thể bị một ngôn ngữ mới thay thế hoặc thay đổi. Giống như một gia đình chào đón một đứa trẻ mới, một tâm trí đơn lẻ không thể tiếp nhận một ngôn ngữ mới mà không có tác động nào đến các ngôn ngữ khác đã biết trước đó".

Monika S. Schmid, một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực suy mòn ngôn ngữ tại Đại học York, cho biết: "Khi bạn có hai ngôn ngữ sống trong não, mỗi lần bạn nói điều gì đó, mỗi lần bạn dùng một từ, mỗi lần bạn ghép câu, bạn phải đưa ra lựa chọn. 

Đôi khi ngôn ngữ này được chọn, nhưng có khi lại là ngôn ngữ kia". Nhưng ngay cả những người rất giỏi lựa chọn và quản lý "chế độ ngôn ngữ" trong trí não vẫn phải chấp nhận một sự đánh đổi: giọng, ngữ pháp hoặc một từ dùng sai sai.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 2.

Theo Schmid, tuổi tác là yếu tố quan trọng trong việc duy trì ngôn ngữ. Trẻ em từ 8-10 tuổi có thể thành thạo một ngôn ngữ ở trình độ người bản xứ, nhưng nếu ngừng sử dụng trước 12 tuổi, khả năng quên ngôn ngữ đó là rất cao. 

Ngôn ngữ được học từ nhỏ thường có sự gắn kết cảm xúc mạnh mẽ, nhưng khi không còn sử dụng, nó có thể phai mờ dần. Một nghiên cứu về những người đã trưởng thành được nhận nuôi tại Pháp từ Hàn Quốc trong khoảng 3-8 tuổi cho thấy khả năng nhận biết câu tiếng Hàn của họ chỉ ngang ngửa nhóm người Pháp bản ngữ.

Ngay cả người di cư khi đã trưởng thành cũng có thể không duy trì khả năng sử dụng ngôn ngữ gốc một cách trọn vẹn. Một nghiên cứu những người di cư Hà Lan đến Úc khi trưởng thành cho thấy thay vì mất đi ngôn ngữ gốc, họ lại có hiện tượng giao thoa ngôn ngữ, tiếng Hà Lan và tiếng Anh bắt đầu trộn lẫn với nhau, họ khó phân biệt và giữ riêng từng ngôn ngữ.

Một số nước, chẳng hạn như Mỹ vốn khét tiếng với lịch sử không khuyến khích phát triển các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh, bắt đầu từ các chính sách đối với người thổ dân và tiếp tục qua những tuyên bố của các lãnh đạo, như bức thư Tổng thống Theodore Roosevelt gửi tổ chức chính trị American Defense Society năm 1919: 

"Nước Mỹ chỉ có chỗ cho một ngôn ngữ, và đó là tiếng Anh". Điều này dẫn đến một nền văn hóa đơn ngữ, nơi tiếng Anh được coi là ngôn ngữ duy nhất và các ngôn ngữ nhập cư không có chỗ đứng.

Gìn giữ một thứ mình không có

"Thằng mù lại dắt thằng mù" (The Blind Leading the Blind), tên bức tranh của danh họa Pieter Bruegel đã thành thành ngữ trong tiếng Anh, chỉ việc dẫn dắt người khác khi chính mình còn thiếu hiểu biết. 

Những bậc cha mẹ là dân nhập cư thế hệ thứ hai cũng đành sắm vai những thầy mù dắt con cái họ đi trên con đường chinh phục lại tiếng mẹ đẻ, dẫu biết giới hạn ngôn ngữ của bản thân.

Ở Mỹ, theo số liệu của tổ chức phi lợi nhuận American Councils for International Education, chỉ có 20% học sinh từ mẫu giáo đến lớp 12 học ngoại ngữ ở trường, so với con số 100% ở Na Uy, Romania và Luxembourg, hay thấp hơn thì cũng 87% ở Hy Lạp, 69% ở Bồ Đào Nha và 64% ở Bỉ. 

Việc khôi phục hay duy trì một ngôn ngữ ngoài tiếng Anh ở trong gia đình thường Mỹ, vì thế phụ thuộc vào nỗ lực riêng lẻ của một cá nhân cụ thể, tác giả Kat Chow viết cho The Atlantic.

Theo Krista Byers-Heinlein, giáo sư tâm lý học tại Đại học Concordia, để một đứa trẻ có thể giao tiếp thành thạo một ngôn ngữ thứ hai, chúng cần tiếp xúc với ngôn ngữ đó ít nhất 20-25% thời gian thức trong ngày, tức hơn 2 tiếng mỗi ngày. 

Vấn đề nằm ở chỗ làm thế nào tăng cường tiếp xúc của trẻ khi cha mẹ còn không trôi chảy ngôn ngữ đó. Những bậc phụ huynh mà Chow phỏng vấn cho chủ đề này hầu hết cho biết bản thân phải chật vật và nỗ lực lắm.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 3.

The Blind Leading the Blind, Pieter Bruegel

Một trong số đó là Hieu Truong, sống ở thành phố Baltimore, bang Maryland, và có hai con nhỏ. Trưởng thành trong gia đình người Việt nhập cư từ những năm 1980, Truong chỉ hiểu và nói được một ít tiếng Việt, đủ để gọi món ở nhà hàng nhưng không đủ để đọc báo. 

Cô đọc sách thiếu nhi bằng tiếng Việt cho con nghe và cùng con học các từ cơ bản như "ngựa vằn" và "hươu cao cổ" qua sách và thẻ học. Cậu con trai 4 tuổi của Truong giờ đã thành thạo đếm số.

Cô cũng tận dụng các tài nguyên hiện đại như phim, chương trình trên Netflix có phụ đề tiếng Việt và các khóa học tiếng Việt trực tuyến. Cô không đặt mục tiêu con trai phải thành thạo tiếng Việt, mà chỉ muốn con hiểu và giao tiếp cơ bản, như biết cách chào hỏi và cảm ơn khi gặp ông bà. 

Cá nhân cô biết rằng để thành thạo một ngôn ngữ và duy trì trình độ đó khó khăn như thế nào. Cô không muốn tạo áp lực đó lên các con và chính bản thân.

Ao ước kết nối

Betty Choi, bác sĩ nhi khoa ở gần thành phố Santa Barbara, bang California, tác giả của cuốn sách thiếu nhi Human Body Learning Lab, là ví dụ tiêu biểu về việc quyết tâm dạy tiếng mẹ đẻ cho con. 

Lớn lên ở thành phố Syracuse, bang New York, Choi muốn kết nối hai con nhỏ của mình với ký ức về cha mẹ quá cố, những người nói các phương ngữ khác nhau của tiếng Trung, và gia đình chồng cô, sống ở xa và nói tiếng Hàn. Thế là Choi bắt đầu tự học tiếng Quan Thoại và tiếng Hàn Quốc cho bản thân, cũng như để dạy các con.

Cô thử nhiều phương pháp trong vài năm, như tham gia các lớp học ngôn ngữ, thuê người chăm sóc trẻ biết song ngữ và cho các con tiếp xúc với sách, bài hát, video bằng tiếng Trung và Hàn. 

Việc cho các con tiếp xúc với tiếng Trung và Hàn bên ngoài khuôn khổ gia đình thì khó hơn vì có ít người Mỹ gốc Á sống ở khu vực nhà Choi. Hết cách, cô đành tự xây dựng chương trình học của riêng mình và phát triển thành Chalk Academy, một nguồn tài nguyên trực tuyến hỗ trợ nuôi dạy trẻ đa ngôn ngữ, bao gồm các bài tập, bài viết và gợi ý về sách, đồ chơi, hoạt động giúp học tiếng Trung và Hàn.

Hiện tại, các con của Choi đã có thể giao tiếp bằng tiếng Quan Thoại và biết một số từ tiếng Hàn. Thế nhưng, học nhanh bao nhiêu, bọn trẻ cũng quên tiếng Hàn nhanh bấy nhiêu, vì những từ tiếng Anh học ở trường và với bạn bè đã vượt qua lượng tiếng Hàn mà mẹ dạy chúng ở nhà. 

Những từ tiếng Hàn mà chúng thường nói hiện nay chỉ còn là: ttong (phân), bang-gu (xì hơi) và saja (sư tử) để chỉ chú thú nhồi bông yêu thích. Tuy vậy, Choi vẫn giữ tiếng Trung là ngôn ngữ chính khi nói chuyện với các con, dù bọn trẻ có thể trả lời bằng tiếng Anh, tiếng Trung hoặc kết hợp cả hai.

Đồng cảm với Truong và Choi, chính Kat Chow, nguyên quán Trung Quốc, cũng đang bị đứa cháu gái 3 tuổi vượt mặt cả tiếng Quảng Đông lẫn tiếng Trung phổ thông.

Mong muốn duy trì tiếng Quảng Đông, nhưng Chow gặp khó vì không có cộng đồng bản ngữ để giao tiếp hằng ngày. Sự thiếu vắng này khiến cô chỉ hiểu mơ hồ ngôn ngữ của cha mẹ và cảm thấy bị tách biệt khỏi những ý tứ tinh tế trong các cuộc trò chuyện gia đình. 

Cô ao ước có thể thành thạo ngôn ngữ này không chỉ để bù đắp cho những ký ức thiếu hụt thời thơ ấu, mà còn để trải nghiệm sự gần gũi cảm xúc mà nó mang lại. "Tôi mong muốn con cái của mình có thể kết nối với văn hóa và những khoảnh khắc nhỏ bé đầy ý nghĩa mà chỉ ngôn ngữ mới có thể mang lại" - Chow viết.

Ngôn ngữ gắn liền với cảm xúc của con người, là cách chúng ta thể hiện nỗi đau, tình yêu và nỗi sợ hãi. Vì vậy, sự lãng quên ngôn ngữ cũng có thể liên quan đến cảm xúc, như nghiên cứu của Schmid về những người Do Thái nói tiếng Đức di cư trước Thế chiến II cho thấy. Trả lời bảng câu hỏi về việc sử dụng tiếng Đức của Schmid, một phụ nữ kể rằng bà không thể nói tiếng Đức khi thăm lại Đức năm 1949, dù trước đó bà từng thành thạo. Cảm giác bị phản bội và tổn thương sau khi gia đình bị tấn công trong Thế chiến II là lý do khiến nhiều người từ bỏ ngôn ngữ này.

Schmid chia nhóm di cư theo thời gian và phát hiện rằng mức độ họ quên đi tiếng Đức tùy thuộc vào thời gian họ sống dưới chế độ quốc xã dài hay ngắn. Những người di cư sau khi bị đàn áp nặng nề thường ít gắn bó hơn với tiếng Đức và từ chối sử dụng nó, bởi ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn là phần quan trọng của bản sắc. Nói cách khác, sự thay đổi trong cách sử dụng ngôn ngữ có thể phản ánh sự thay đổi trong nhận thức và cảm xúc của người nói, và có thể diễn ra do hoàn cảnh hoặc ý chí cá nhân.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận