Trong đó, nghị định quy định rõ điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội. Cụ thể, trường hợp chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình quy định tại điều 77 của Luật Nhà ở.
Trường hợp vợ hoặc chồng thuộc các nhóm kể trên nhưng không có tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại tỉnh, thành nơi có dự án nhà ở xã hội tại thời điểm nộp hồ sơ đăng ký mua, thuê mua nhà ở xã hội.
Nghị định cũng quy định công dân thuộc các khoản 5, 6 và 8 điều 76 của Luật Nhà ở thì phải đảm bảo điều kiện về thu nhập.
Cụ thể, trường hợp người đứng đơn là người độc thân, có thu nhập hằng tháng thực nhận không quá 15 triệu đồng tính theo bảng tiền công, tiền lương do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi làm việc xác nhận.
Trường hợp người đứng đơn đã kết hôn thì vợ hoặc chồng của người đó có tổng thu nhập hằng tháng thực nhận không quá 30 triệu đồng tính theo bảng tiền công, tiền lương do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi làm việc xác nhận.
Thời gian xác định điều kiện về thu nhập là trong 1 năm liền kề, tính từ thời điểm nộp hồ sơ hợp lệ cho chủ đầu tư để đăng ký mua, thuê mua nhà ở xã hội.
Trường hợp người đăng ký nhà ở xã hội thuộc diện quy định thuộc điều 72 của Luật Nhà ở và không có hợp đồng lao động, nếu là người độc thân thì thu nhập hằng tháng thực nhận không quá 15 triệu đồng, nếu đã kết hôn theo quy định của pháp luật thì người đứng đơn và vợ/chồng có tổng thu nhập hằng tháng thực nhận không quá 30 triệu đồng.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xác nhận, UBND cấp xã thực hiện việc xác nhận điều kiện về thu nhập trong 1 năm liền kề tính từ thời điểm nộp hồ sơ hợp lệ cho chủ đầu tư để đăng ký mua, thuê mua nhà ở xã hội.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận