Martin Landray (trái) và Peter Horby - Ảnh: VOX
Ông lập tức gọi điện cho đồng nghiệp GS.TS Martin Landray tóm tắt báo cáo thử nghiệm rồi nhận xét: "Không thể tin được! Nó hoạt động rồi!".
Tháng 6-2020, Chính phủ Anh chỉ thị cho Dịch vụ Y tế quốc gia (NHS) đưa dexamethasone vào phác đồ điều trị COVID-19. Dexamethasone được xem là thuốc điều trị COVID-19 đầu tiên góp phần cải thiện tỉ lệ tử vong của bệnh nhân mắc COVID-19 nặng.
Chương trình thử nghiệm quy mô lớn Recovery
Chắc chắn dexamethasone không phát lộ chức năng điều trị COVID-19 nếu không có chương trình thử nghiệm Đánh giá ngẫu nhiên về điều trị COVID-19 (Recovery) do Đại học Oxford chủ trì. Ý tưởng dẫn đến một chương trình thử nghiệm quy mô lớn như Recovery khởi đầu trong những năm 1980.
Lúc bấy giờ, một nhóm nghiên cứu ở Đại học Oxford không hài lòng với tình trạng thiếu phương pháp điều trị bệnh tim. Họ nghĩ đến một chương trình thử nghiệm tầm cỡ quy tụ từ 10.000 - 15.000 bệnh nhân nhưng hoạt động theo cơ chế hết sức đơn giản.
Các y bác sĩ vừa làm công việc hằng ngày ở bệnh viện vừa tham gia thử nghiệm như nhà nghiên cứu.
Quy trình thử nghiệm bắt đầu khi có bệnh nhân nhập viện. Nhóm nghiên cứu chỉ định cho các y bác sĩ sử dụng gói điều trị cho bệnh nhân nhưng không ai biết gói điều trị đó chứa giả dược hay thuốc thử nghiệm. Họ sẽ ghi nhận diễn biến sức khỏe bệnh nhân và mọi lưu ý trong quá trình thử nghiệm như máu đông, đột quỵ.
Chương trình Nghiên cứu quốc tế về sống sót sau nhồi máu (ISIS) ra đời, tuyển hơn 140.000 bệnh nhân và sau đó tìm ra nhiều liệu pháp giảm đáng kể số ca tử vong do đau tim, trong đó có liệu pháp kết hợp một enzyme chống đông máu với thuốc aspirin.
Phác đồ mang tính đột phá này vẫn được sử dụng đến nay. Chương trình ISIS nổi tiếng trong giới y khoa, thu hút nhiều nhà nghiên cứu trẻ như Martin Landray (đến Đại học Oxford năm 2000).
Martin Landray đã dành cả cuộc đời để tìm cách tốt nhất tiến hành các thử nghiệm lâm sàng thực sự lớn. Trong khi đó, Peter Horby đã từng thuyết trình về nhiều cơ hội nghiên cứu bị bỏ lỡ trong dịch SARS (hội chứng hô hấp cấp tính nặng) năm 2002 - 2003.
Trong dịch cúm H1N1 năm 2009, ông định thực hiện một số thử nghiệm lâm sàng nhưng phải mất ba tuần để soạn đề án, rồi thêm hai tuần thuyết trình trước hội đồng đạo đức mới được bật đèn xanh. Các thử nghiệm sau đó chỉ tuyển được vài trăm bệnh nhân. Trao đổi với tạp chí Vox, ông nhớ lại: "Thật kinh khủng. Không có thử nghiệm nào đúng nghĩa".
Ngày 28-2-2020, lúc dịch COVID-19 mới bùng phát ở Anh với chỉ 20 ca nhiễm, Landray gửi thư cho TS Jeremy Farrar phụ trách tổ chức từ thiện Wellcome Trust giải thích virus SARS-CoV-2 chắc chắn sẽ lây nhiễm rất nhanh và cần thử nghiệm tìm thuốc điều trị. Farrar đề nghị Landray liên hệ với Horby bởi lúc đó Horby đang có nguồn tài trợ thử nghiệm nhiều loại thuốc ở Trung Quốc.
Khi Horby và Landray gặp nhau lần đầu ở Đại học Oxford, họ nhận ra mỗi người là một nửa của nhau. Horby nắm chắc thủ tục tổ chức điều tra thuốc trong dịch bệnh trong khi Landray đã có đề án thử nghiệm quy mô lớn.
Landray giải thích: "Anh ấy chưa bao giờ thực hiện thử nghiệm lâm sàng nào trên 200 bệnh nhân, còn tôi chưa bao giờ nghiên cứu về bệnh truyền nhiễm". Họ làm đề xuất và nhờ Farrar hỗ trợ gửi đề xuất cho giám đốc y tế Anh Chris Whitty.
Whitty đồng ý ngay rồi cùng những người đồng cấp ở Scotland, Xứ Wales và Bắc Ireland gửi thư cho các bệnh viện thuộc hệ thống NHS kêu gọi tham gia thử nghiệm. Cuối cùng hơn 175 bệnh viện đồng ý. Chưa đầy hai tuần sau cuộc gặp đầu tiên giữa Horby và Landray, hơn 1.000 bệnh nhân đăng ký tham gia chương trình Recovery.
Bệnh nhân COVID-19 điều trị tại Bệnh viện Đại học King's College London (hệ thống NHS) - Ảnh: Getty Images
Tìm thuốc công hiệu, loại bỏ thuốc vô tác dụng
Peter Horby và Martin Landray đã thiết kế chương trình Recovery theo mô hình thử nghiệm ISIS về bệnh tim trước đó. Từ 3 - 4 tiếng sau khi bệnh nhân COVID-19 nhập viện, một thành viên nhóm nghiên cứu đến hỏi bệnh nhân có muốn tham gia thử nghiệm không. Bệnh nhân đồng ý sẽ ký tên vào mẫu đơn dài chỉ một trang.
Thuật toán sẽ lập đơn thuốc với 50% số bệnh nhân dùng thuốc thử nghiệm và 50% còn lại làm nhóm đối chứng. Thuốc thử nghiệm được ghi bằng cái tên khác trên bảng theo dõi bệnh nhân. Chỉ cần được hướng dẫn trong 20 phút, các y tá đã có thể theo dõi bệnh nhân. Thông tin được tự động tải lên cơ sở dữ liệu của NHS.
Nhóm các chuyên gia sẽ khuyến cáo nên thử nghiệm loại thuốc điều trị nào. Riêng đối với dexamethasone, các nghiên cứu về tác dụng điều trị COVID-19 của hoạt chất còn rất hạn chế. Một số nghiên cứu đánh giá dexamethasone có thể có ích, ngược lại cũng có chỉ định không dùng thuốc ở liều cao vì gây nguy hiểm.
Nhiều chuyên gia còn cảnh báo không nên thử nghiệm dexamethasone do có nhiều tác dụng phụ tiềm ẩn. Horby nhớ lại: "Có rất nhiều tranh cãi về nó, như vậy chắc chắn đây là loại thuốc tốt để thử nghiệm. Thử nghiệm là cách duy nhất để không còn ý kiến mâu thuẫn với nhau nữa".
Trong quá trình tìm kiếm thuốc điều trị COVID-19, các nhà nghiên cứu phải thử nghiệm lâm sàng cùng lúc nhiều phương pháp điều trị khác nhau. Muốn làm được điều này cần phải có hàng ngàn hoặc hàng chục ngàn bệnh nhân.
Nhiều thử nghiệm đối với thuốc kháng virus SARS-CoV-2 thất bại ngay từ đầu vì cỡ mẫu quá nhỏ hoặc thiết kế quá kém. Ngược lại, chương trình Recovery đã chứng minh đây là chương trình cung cấp kết quả nghiên cứu hiệu quả nhất thế giới.
Trong một năm, chương trình Recovery đã kiểm tra tác dụng mới của chín hoạt chất đã biết, một loại huyết tương của bệnh nhân COVID-19 đã bình phục và phát triển một tổ hợp kháng thể mới trong điều trị. Kết quả đã phát hiện hai hoạt chất có khả năng cải thiện nguy cơ tử vong nơi bệnh nhân mắc bệnh nặng là dexamethasone và tocilizumab.
Tháng 2-2021, kết quả thử nghiệm đối với tocilizumab được công bố. Tocilizumab làm giảm tỉ lệ tử vong nơi bệnh nhân đang thở oxy hoặc thở máy, đồng thời còn giúp bệnh nhân đã phát triển triệu chứng nặng xuất viện nhanh hơn.
Đây là thắng lợi của chương trình Recovery vì nhiều thử nghiệm nhỏ trước đó không chứng minh được tocilizumab có ích. Các bác sĩ tự tin đưa tocilizumab vào phác đồ điều trị. Landray khôi hài nói:
"Chúng tôi công bố kết quả vào giờ ăn trưa thì đến giờ uống trà áp dụng luôn". Song song theo đó, chương trình Recovery còn chứng minh một số ứng viên thuốc điều trị COVID-19 được xem là hứa hẹn nhưng thật ra hoàn toàn vô tác dụng.
Chương trình quy tụ hàng chục ngàn bệnh nhân tại hàng chục bệnh viện tham gia thử nghiệm thuốc điều trị. Các công ty dược phẩm đều muốn trở thành đối tác vì họ xem chương trình là nơi đáng tin cậy nhất để xác định thuốc của họ ngăn chặn COVID-19 hay không.
Chương trình thành công được nhờ mạng lưới y tế của Anh là một thể thống nhất do NHS điều hành hầu hết các bệnh viện. Các nhân viên y tế kể cả nhân viên nghiên cứu đều thuộc guồng máy nhà nước. Hồ sơ bệnh án được chia sẻ trong một hệ thống dữ liệu chung.
Dexamethasone có giá thành rẻ và phổ biến, là hoạt chất chứa steroid có tác dụng chống viêm, chống dị ứng và ức chế miễn dịch. Đại học Oxford đã nghiên cứu tác dụng mới của hoạt chất này trong điều trị COVID-19.
Kết quả thử nghiệm cho thấy dexamethasone đã làm giảm 35% nguy cơ tử vong đối với bệnh nhân COVID-19 thở máy, giảm 20% nguy cơ tử vong đối với bệnh nhân thở oxy, giảm 17% tỉ lệ tử vong chung trong 28 ngày và không có tác dụng đối với bệnh nhân không cần hỗ trợ thở.
*********
EU và Mỹ hy vọng sẽ có thêm nhiều thuốc điều trị COVID-19 trước cuối năm nay. Các loại thuốc điều trị nào đã được châu Âu và Mỹ "điểm mặt chỉ tên"?
>> Kỳ tới: EU dùng kháng thể, Mỹ chọn kháng virus
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận