Tôi đồng tình với quy định người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Trong quá trình điều tra vụ án, một người là thủ phạm nhưng có thể có hàng chục người bị tình nghi và bị tình nghi chưa phải là có tội. Luật cần đảm bảo quyền này cho những người bị tình nghi khi bản thân họ tự thấy chưa đủ điều kiện về nhiều mặt như kiến thức pháp luật, về thể chất, tinh thần; họ cần thời gian để bình tĩnh suy nghĩ cân nhắc, cần có người trợ giúp về mặt pháp lý để tránh tình trạng tự đưa mình vào tình thế bất lợi, tự buộc tội chính mình.
Thực tế cho thấy trong lần đầu bị công an triệu tập, nhiều người mất bình tĩnh, thậm chí hoảng loạn, nhất là người ít hiểu biết pháp luật, vị thành niên, người dân tộc thiểu số, có những trường hợp đã tự sát tại nơi lấy lời khai hoặc nơi giam giữ.
Chính vì vậy, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình là quyền tự bảo vệ, thực chất là một phần quan trọng của quyền bào chữa. Đây là một phương thức tự bảo vệ đơn sơ nhất, nhưng khả thi nhất cho người dân dù ở trình độ nhận thức pháp luật thấp nhất trước sự đối diện với cán bộ điều tra được đào tạo bài bản về thủ pháp điều tra, dày dạn nghiệp vụ thẩm vấn. Thực hiện quyền này còn giúp giảm tối đa oan, sai.
Việc dùng mọi biện pháp (kể cả vũ lực) buộc nghi can phải khai nhận tội mà mình không thực hiện, sau đó hợp thức hóa, ngụy tạo chứng cứ khác cho phù hợp với diễn biến lời nhận tội, rồi lấy đó làm chứng cứ để buộc tội trước tòa là nguyên nhân gốc rễ của những vụ án oan chấn động dư luận vừa qua.
Do pháp luật hiện hành không quy định trực tiếp quyền không trình bày lời khai mà chỉ có thể hiểu gián tiếp, nên thực tế các quy định về quyền này không được chấp hành nghiêm. Cùng với những hạn chế của tố tụng thẩm vấn nên đã trở thành thói quen trong cả nhận thức và hành động của không ít người tiến hành tố tụng, việc phụ thuộc vào lời khai nhận tội của nghi can và “suy đoán có tội” đã trở thành khá phổ biến. Điều tra, truy tố, xét xử sẽ được kết thúc một cách nhanh chóng nếu có được lời nhận tội.
Thực tế nhiều trường hợp đã biến từ “quyền trình bày lời khai” thành nghĩa vụ phải khai báo và từng xảy ra mớm cung, bức cung, nhục hình; biến việc không thực hiện quyền trình bày lời khai thành “thiếu thành khẩn”, “không hợp tác với cơ quan tố tụng”; nghi can tự bào chữa bị coi là “quanh co, chối tội hòng trốn tránh trách nhiệm” và tất cả tình tiết này đều bị tòa án dùng làm căn cứ để quyết định mức án nặng hơn.
Quy định “quyền im lặng” như dự thảo rõ ràng là minh bạch hơn so với hiện hành, vừa giúp bị can, bị cáo thấy rõ quyền của mình, người tiến hành tố tụng thấy rõ nghĩa vụ và giúp Nhà nước chống oan, sai. Đây cũng là tiền đề rất quan trọng để thực hiện nguyên tắc “trách nhiệm chứng minh”, “suy đoán vô tội”, “đảm bảo quyền bào chữa”.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận