Còn đối với đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta, không những cụ đã sử dụng các thành ngữ, tục ngữ... một cách tài tình mà còn sáng tạo ra nhiều thành ngữ mới. Bên cạnh đó, nhiều từ trong tiếng Việt được mở rộng thêm nghĩa khi qua bàn tay cụ. Không thể thống kê hết những từ như vậy, chúng ta chỉ nêu một vài ví dụ để minh chứng điều đó.
Mới mẻ chữ “nỗi” của Nguyễn Du
Theo Từ điển tiếng Việt, chữ NỖI có hai ý. Thứ nhất là chỉ sự tình, sự thể không hay xảy ra, nói về mặt tác động đến tình cảm của con người như “nỗi bất công”, “nỗi oan ức”. Thứ hai là từ dùng để chỉ tâm trạng, tình cảm cụ thể (thường vào loại không được như ý muốn) mà con người phải trả qua, Ví dụ như “nỗi buồn, nỗi nhớ”...
"Nếu vậy, chính Nguyễn Du đã sáng tạo ba chữ “nỗi dọc đường” để nói chuyện tình tang ngoài vợ của các đấng nam nhi. Hiện đại biết chừng nào!" |
Ðể xem đại thi hào Nguyễn Du đã sử dụng chữ NỖI như thế nào, trước hết thử điểm danh những câu thơ có chữ NỖI trong Truyện Kiều:
Câu 109: Nỗi niềmtưởng đến mà đau/Câu 178: Rộn đường gần với nỗi xa bời bời/Câu 221: Nỗi riênglớp lớp sóng dồi/Câu 246: Nỗi nàngcanh cánh bên lòng biếng khuây/Câu 535: Mảng tin xiếtnỗi kinh hoàng/Câu 537: Gót đầumọi nỗiđinh ninh/Câu 538: Nỗi nhàtang tóc, nỗi mìnhxa xôi/Câu 777: Xiết bao kểnỗi thảm sầu/Câu 852: Phần căm nỗi khách, phần nhơnỗi mình/Câu 987: Nỗi oanvỡ lở xa gần/Câu 1.015: Kề tai mấy nỗinằn nì/Câu 1.082: Nỗi nhàbáo đáp, nỗi thânlạc loài/Câu 1.208: Nỗi đêmkhép mở, nỗi ngàyriêng chung/Câu 1.220: Nước đờilắm nỗilạ lùng khắt khe/Câu 1.250: Ngẩn ngơ trăm nỗi dùi mài một thân/Câu 1.251: Nỗi lòngđòi đoạn xa gần/Câu 1.318: Nỗi quêcòn một hai điều ngang ngang/Câu 1.444: Ðể nàng cho đến nỗi này vì tôi/Câu 1.464: Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong/Câu 1.527: Kể chi nhữngnỗi dọc đường/Câu 1.528: Buồng trong nàynỗi chủ trương ở nhà/Câu 1.635: Thân sao lắmnỗi bất bằng/Câu 1.790: Nỗi gầnnào biết đường xa thế nào/Câu 1.870: Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng/Câu 1.888: Phải chi mình lại xót xanỗi mình/Câu 1.904: Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời/Câu 1.943: Sụt sùi giởnỗi đoạn trường/Câu 2.000: Nỗi ôngvật vã, nỗi nàngthở than/Câu 2.006: Nghĩ mà thêmnỗi sởn gairụng rời/Câu 2.069: Nghĩ rằng khônnỗi giấu mình/Câu 2.246: Ðường kianỗi nọngổn ngang bời bời/Câu 2.739: Nỗi nàngtai nạn đã đầy/Câu 2.740: Nỗi chàngKim Trọng bấy chầy càng thương/Câu 2.754: Nỗi niềmtâm sự bây giờ hỏi ai/Câu 2.770: Càngngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường/Câu 2.776: Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?/Câu 2.782: Cực trăm ngàn nỗi, dặn ba bốn lần/Câu 2.799: Thấy chàng đau nỗi biệt ly/Câu 2.812: Ðể cho đến nỗi trôi hoa, giạt bèo/Câu 2.819: Nỗi thương nói chẳng hết lời/Câu 3.027: Nỗi mừng biết lấy gì cân/Câu 3.102: Ðã xong thân thế còn toan nỗi nào/Câu 3.140: Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao...
Có thể thống kê được 56 câu thơ trong Truyện Kiều có chữ “nỗi”. Trừ hai lần “nỗi” kết hợp với “niềm” để thành danh từ “nỗi niềm”, còn ở 54 câu còn lại, ta xem đại thi hào đã sử dụng chữ này như thế nào.
Như Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa ở trên cũng như theo thói quen thông thường của chúng ta, chữ “nỗi” thường được kết hợp với một tính từ để tạo thành danh từ như “nỗi đau”, “nỗi khổ”, “nỗi buồn”, “nỗi oan ức”, “nỗi bất công”... Trong Truyện Kiều, sự kết hợp này khá phổ biến, đó là “nỗi kinh hoàng”, “nỗi thảm sầu”, “nỗi oan”, “nỗi bất bình”, “nỗi bất bằng”, “nỗi biệt ly”... Bên cạnh đó là sự kết hợp khá quen thuộc với chúng ta hôm nay như “nỗi lòng”... Còn phần lớn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng chữ “nỗi” thật mới mẻ, mới mẻ đến nỗi cho đến ngày nay, sau khi Truyện Kiều đã được sáng tác trên 200 năm, chúng ta vẫn chưa mấy ai dám sử dụng chữ này như cụ.
“Nỗi dọc đường” của Thúc Sinh
Trước hết là chữ “nỗi” đứng độc lập, không kết hợp với một tính từ hay danh từ nào để có một ý nghĩa cụ thể, mà cụ dành phần đó cho người đọc suy nghĩ mà hiểu lấy. Ðó là “gót đầu mọi nỗi đinh ninh”, là khi chàng Kim nghe tin chú mất, tìm tới để than vãn với nàng Kiều. Tác giả không nói cụ thể Kim Trọng tâm sự những gì, mà chỉ dùng hai chữ “mọi nỗi”, chữ “nỗi” ở đây hàm ý những “chuyện” của nỗi lòng. Khi mụ Tú Bà khuyên giải nàng Kiều sau khi nàng toan tự tử ở lầu xanh, Nguyễn Du viết: “Kề tai mấy nỗi nằn nì” thì không ai hiểu đây là “nỗi nằn nì”, mà tác giả muốn nói mụ Tú ra vẻ nói thật lòng, đưa ra bao nhiêu chuyện để nằn nì, khuyên giải Thúy Kiều. Rồi “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe”, và “Cực trăm ngàn nỗi dặn ba bốn lần”... thì chữ “nỗi” cũng theo nghĩa “tổng quát” này.
Không biết thời cụ Nguyễn Du về trước đã ai đem kết hợp chữ “nỗi” với một đại từ nhân xưng như trong Truyện Kiều hay chưa, điều mà ngày nay chúng ta ít thấy trên thi đàn. Ðó là “nỗi nàng”, “nỗi chàng”, “nỗi ông”, “nỗi mình”... Cách dùng này hiệu quả và mới mẻ ngay cả thế kỷ 21 này.
Nguyễn Du mạnh dạn kết hợp chữ “nỗi” với một danh từ chỉ thời gian như “nỗi đêm”, “nỗi ngày” làm cho ý nghĩa chữ “nỗi” được mở rộng ra, gợi người đọc suy nghĩ, liên tưởng. Rồi “nỗi riêng”, “nỗi gần” và bao nhiêu “nỗi” khác nữa.
Trong Truyện Kiều có hai câu thơ tác giả dùng chữ “nỗi”, theo tôi, là “táo bạo” nhất:
Kể chi nhữngnỗi dọc đường (1.527)/Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà (1.528)
Ðây là hai câu thơ chuyển đoạn từ việc nói Thúy Kiều để bắt đầu nói về Hoạn Thư. “Nỗi chủ trương ở nhà” là nói Thúc Sinh đã có người vợ chính thức ở nhà thì ai cũng hiểu, còn “nỗi dọc đường” là gì? Trong một chuyến đi công tác, ngồi trên xe có nhiều nhà thơ, khi nhắc hai câu thơ này thì nhiều người hiểu rằng “nỗi dọc đường” đây là nói chuyện đi đường của Thúc Sinh. Tôi lại không hiểu như thế. Nếu chỉ nói chuyện đi đường thì Nguyễn Du sẽ không dùng chữ “nỗi” mà dùng chữ “chuyện”: chuyện dọc đường. Trong Truyện Kiều, chữ “nỗi” thường ẩn chứa ý nghĩa sâu xa hơn là “chuyện”. Vậy “nỗi dọc đường” là gì? Theo tôi, “nỗi dọc đường” của Thúc Sinh chính là Thúy Kiều, dù có hôn nhân nhưng khác xa sự hôn nhân với Hoạn Thư. Câu chuyển đoạn này nói theo ý nghĩ của Thúc Sinh, coi Hoạn Thư là quan trọng. Như thế mới có sự cân xứng giữa “nỗi dọc đường” và “nỗi chủ trương ở nhà”. Nếu vậy, chính Nguyễn Du đã sáng tạo ba chữ “nỗi dọc đường” để nói chuyện tình tang ngoài vợ của các đấng nam nhi. Hiện đại biết chừng nào!
Bên cạnh chữ “nỗi” tôi đã trình bày, các bạn có thể khảo sát chữ “khuôn” và bao chữ khác trong Truyện Kiều để thấy Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới - đã làm ngôn ngữ chúng ta giàu thêm biết bao!
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận