Ảnh minh họa. Nguồn: medicalnewstoday.com
Tăng tiết mồ hôi là có nhiều mồ hôi trên một phần cơ thể: Bàn tay, bàn chân, nách hay mặt,... Nó không tuỳ thuộc vào nhiệt độ của môi trường nhưng bị ảnh hưởng bởi những kích thích của xúc cảm, đây là bệnh có tính di truyền. Có hai loại tăng tiết mồ hôi: Thứ phát sau một bệnh lý khác như tăng hoạt động của tuyến giáp; và nguyên phát khi không có bệnh khác kèm theo. Tiết nhiều mồ hôi làm ảnh hưởng chất lượng sống, gây nên những vấn đề về xã hội, tâm lý, giáo dục và nghề nghiệp.
Những biểu hiện của tăng tiết mồ hôi tiên phát
- Tăng tiết mồ hôi mặt hay phừng đỏ mặt: Mồ hôi mặt nhiều làm bệnh nhân thấy không an toàn hay lo lắng. Bệnh nhân cũng thường có những cơn phừng đỏ mặt, nhất là khi có những trêu chọc nhẹ nhàng nhất, làm ảnh hưởng trong giao tế.
- Tăng tiết mồ hôi lòng bàn tay: Bàn tay có nhiều mồ hôi, thường là biểu hiện lo lắng nhất của bệnh nhân. Lượng mồ hôi có thể thay đổi từ ẩm nước đến nhỏ giọt. Vài bệnh nhân có cảm giác lạnh bàn tay. Do bàn tay là phần quan trọng trong tiếp xúc với xã hội hay nghề nghiệp nên nhiều bệnh nhân bị tự kỷ và tránh tiếp xúc, miễn cưỡng trong bắt tay, hạn chế làm việc liên quan giấy tờ, không viết được hay làm nhoè mực,… hoặc có thể bối rối khi nắm tay người mình yêu.
- Tăng tiết mồ hôi nách, bàn chân và những nơi khác.
Điều trị tăng tiết mồ hôi
Điều trị tăng tiết mồ hôi thứ phát: Điều trị bệnh lý gây tăng tiết mồ hôi sẽ được sử dụng trước. Như trong bệnh cường giáp, bệnh nhân sẽ được dùng thuốc nội tiết trực tiếp; những bệnh nhân tâm thần như rối loạn lo lắng sẽ được chăm sóc về tâm lý.
Điều trị tăng tiết mồ hôi nguyên phát gồm:
- Chất chống tiết mồ hôi (Antiperspirants): Là thuốc điều trị đơn giản và được khuyến cáo dùng đầu tiên. Thường có tác dụng cho bệnh nhân tăng tiết mồ hôi nhẹ hay vừa. Các loại có thể có trên thị trường: Drysol, ArmsUp, WhitWetless lotion, Odaban, Mitchum Clear Gel Sport. AICI in gel base (Aluminum Chloride (20%) – là dung dịch cục bộ có tác dụng giảm tiết mồ hôi tay. Thuốc được bôi trực tiếp trên lòng bàn tay, nách, 3-4 lần/tuần. Thuốc có thể gây kích thích da; kết quả thường hạn chế, hết tác dụng khi ngưng dùng.
- Thuốc: Có vài loại thuốc có tác dụng lên mồ hôi, nhưng thường không dùng do có tác dụng phụ như khô miệng, mắt mờ và an thần. Cần có chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc khi dùng. Thuốc chủ yếu là loại chống giao cảm (anticholinergic), có hay không có thuốc an thần. Chúng thường được dùng trong tăng tiết mồ hôi chung (thân, bẹn, đùi, đầu,…) Thuốc thường dùng là Probanthine, Propanolol SR, Xanax,…
- Chuyển ion (Drionics machine): Được dùng khi thuốc không hiệu quả. Phương thức điều trị là áp dòng điện cường độ thấp vào tay hay chân bệnh nhân trong dung dịch điện giải, vài lần trong tuần. Hiện nay chưa có trên thị trường Việt Nam. Kết quả bất thuờng và nhiều bệnh nhân cho là tốn thời gian và tốn kém. Khó thực hiện ở bệnh nhân tăng tiết mồ hôi nách và mặt.
- Chích Botilinum: Botilinum là chất được sản xuất từ vi khuẩn Clostridium botolinum, có tác động lên chất dẫn truyền thần kinh (acetylcholine) tại điểm tiếp hợp. Thuốc được dùng để điều trị tăng tiết mồ hôi do tác dụng làm liệt dây giao cảm tiết mồ hôi, bằng cách chích vào nách hay bàn tay. Tác dụng có tính tạm thời và phải tiêm hơn hai lần trong một năm nên giá điều trị thường cao. Nhiều bệnh nhân cho biết chích đau, và giảm hiệu quả trên những bệnh nhân được chích nhiều lần, có thể do họ đã tạo ra những kháng thể chống lại độc tố.
- Phẫu thuật "Cắt đốt hạch giao cảm ngực qua nội soi" (ETS= Endoscopic Thoracic Sympathectomy) và "Cắt hạch giao cảm ngực qua nội soi bằng kẹp" (ETS-C= ETS by Clamping) là cách đơn giản hợp lý để giải quyết tốt tăng tiết mồ hôi tay tiên phát. Phương pháp ETS là phá một phần chuỗi giao cảm (bằng dao điện hay cắt bỏ) không thể hồi phục; trong khi ETS-C là làm gián đoạn dòng thần kinh bằng kẹp titanium, có thể hồi phục khi tháo kẹp nếu bệnh nhân không chấp nhận các tác dụng phụ.
Thời gian hồi phục sau mổ
Thông thường phải nằm viện qua 1 đêm, 2 ngày để làm việc và chơi thể thao sau 1 tuần.
Hiệu quả của phẫu thuật
- Tiết nhiều mồ hôi tay được chữa lành ở tất cả bệnh nhân (100%). Tay của bạn sẽ ấm và khô ngay sau phẫu thuật.
- Cơn phừng đỏ mặt, được chữa lành ở hầu hết bệnh nhân. Giảm độ nặng của cơn phừng mặt (#80%) và có vài bệnh nhân hết bệnh.
- Giảm tiết mồ hôi mặt ở 95% bệnh nhân.
- Giảm tiết mồ hôi nách nếu cắt thêm hạch giao cảm T3.
- Giảm nhịp tim, hồi hộp.
- Giảm những cơn đau đầu.
Những kết quả không lợi của phẫu thuật
- Tiết mồ hôi bù. Khoảng 82% bệnh nhân có cảm giác tiết nhiều mồ hôi hơn ở các phần khác của cơ thể (thân, chân,...), trong đó 75% nhẹ, 5% trung bình và 2% nặng. Bệnh nhân thường cho là không quan trọng và thường gặp khi căng thẳng hay làm việc nhiều.
- Tiết nhiều mồ hôi khi ăn một loại thực phẩm (Gustatory sweating) ít gặp, #3%.
- Hội chứng Horner xảy ra do thương tổn hạch giao cảm ngực 1 (Hạch sao) khi phẫu thuật; với biểu hiện sụp mí mắt, co nhãn cầu và lồi mắt. Biến chứng này hiếm gặp do hạch nằm trên xương sườn 1 ngoài lồng ngực nên khó bị thương tổn.
- Tràn khí màng phổi hiếm gặp (#3%), do thương tổn phổi khi phẫu thuật, nhất là khi phổi bệnh nhân có bóng khí hay nang trên bề mặt phổi.
- Chảy máu, thường từ thành ngực hay tĩnh mạch kế chuỗi hạch.
- Đau dây thần kinh liên sườn ít gặp và giảm sau 3 - 6 tuần./.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận