Phóng to |
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn |
"Đúng ra chỗ đứng của tôi là dưới đáy xã hội, nhưng tôi đã vượt lên và có chút thành đạt - thế là xong nhiệm vụ của con người. Người khác coi văn học như một nghề cao cả, như thánh đường. Tôi chỉ nghĩ : viết văn là một nghề lao động chân chính".
Với Nguyễn Mạnh Tuấn cuộc đời dường như chỉ có hai màu: đen và trắng. Sự quyết liệt trong tính cách của anh và thói quen lao động hết mình, đã làm gì là làm đến kỳ cùng cũng đậm đặc trong các nhân vật của anh.
Nguyễn Mạnh Tuấn là một người thích nói thẳng. Nói thẳng trên trang viết và nói thẳng ngoài đời. Dường như những thăng trầm của cuộc đời anh đều gắn liền với cái sự thẳng đó. Tôi có nhiều chuyện muốn hỏi anh từ khi anh là nhà văn đầu tiên mua xe hơi ở TPHCM, đến sự anh đùng đùng xin ra khỏi Nhà nước để tự bươn chải với đời...., nhưng xuyên suốt vẫn là anh đã chứng minh một thực tế: nhà văn có tài hoàn toàn có thể sống mạnh bằng nghề.
* Giờ đây khi là một trong số ít nhà văn giàu nhất ở TP.HCM, hẳn là anh không hề nuối tiếc ngày làm đơn ra khỏi biên chế nhà nước, thậm chí còn cảm giác "giá như" sớm hơn?
- Tất cả đều có duyên cớ. Tôi có những lúc tự ái khi người ta bảo: nhà văn không thể sống bằng nghề. Và tôi quyết tâm chứng minh điều ngược lại, chứ hoàn toàn không phải vì bất mãn nên bỏ. Tôi đã có thời gian làm thường trú ở Nhà xuất bản Lao động trong TPHCM, rồi trưởng phòng Biên tập ở Hãng Phim TPHCM. Mất nhiều thời gian vào những chuyện họp hành, sự vụ cơ quan, thời gian viết teo lại. Năm 1990, tôi nghỉ. Ban đầu cấp trên giữ lại, mời tôi vào ban cố vấn của Sở VHTT nhưng tôi quyết nghỉ hẳn.
Và khi nghỉ hẳn nhà nước, lĩnh một cục tiền, tôi càng thấy quyết định của mình là sáng suốt. 30 năm lĩnh 1 triệu 8, tính ra hồi đó là 4 chỉ. Rồi tự bỏ tiền in sách (cuốn Ngoại tình), và vợ tôi đứng ra tự phát hành. Nhưng trước đó tôi đã sống khoẻ bằng ngòi bút, với những cuốn sách có lượng phát hành cao như Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển.
Thế nhưng cảm giác hụt hẫng không phải là không có. Bao năm quen, làm công dân Nhà nước rồi, nay bỗng hẫng về mặt tâm lý. Ngay chuyện người của phòng điều tra dân số đến nhà, mình phải khai là phó thường dân, nghe làm sao ấy... Rồi chuyện ra khỏi biên chế Nhà nước của tôi trùng với chuyện tôi ra khỏi Hội Nhà văn VN. Hai sự kiện trùng nhau, làm nhiều người coi tôi là kiêu ngạo, bất mãn...
Trước đó, tôi như một "ngôi sao" trong văn học VN. Hồi đó, tôi đã viết vở "Ma tuý và mỗi người" không được dựng, thậm chí còn bị ghi vào sổ đen. Nay thì Idecaf đang công diễn và được khán giả khen. Nhưng tôi cũng nói thẳng: tạng mỗi người một khác, một số bắt chước tôi bỏ Nhà nước về làm ngoài thì gãy!
* Sự lựa chọn khi đó của anh là dũng cảm, đó là cuộc đấu mà được ăn cả ngã về không. Ngoài chuyện tự ái ra, thì anh lấy gì làm động lực để vươn lên; bởi lẽ khi con người ta nhiều thời gian thì sự buông thả, dễ dãi cũng nhiều hơn?
- Đã chấp nhận năm ăn năm thua thì quyết tâm phải cao. Ban đầu là tự phát, về sau bị dồn vào chân tường thì quyết tâm càng cao. Qua khỏi giai đoạn tự phát đến giai đoạn sau khi tính chuyên nghiệp đã cao thì mọi sự dễ dàng hơn. Vả lại tôi đi vào nghề văn là sự bức bí của hoàn cảnh.
Ông ngoại tôi làm ở NXB Mai Lĩnh in sách của Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng. Sau giải phóng, bố tôi in lại sách của một số nhà văn trong đó có Vũ Trọng Phụng (hồi đó bị coi là nhà văn có nhiều "vấn đề")... Thế là gia đình tôi chịu đòn búa bổ. Con cái phiêu bạt. Tôi làm thợ ở Quảng Ninh, không được thi đại học. Con người tôi cảm thấy đầy rẫy sự bức bách, nên quyết tâm viết văn để giải toả cảm xúc trong lòng và thành công đến ngay.
Xuất phát từ các cụ ngày xưa đi dép mo cau, coi văn như một thứ đạo để chơi. Tôi thì coi văn là một lao động chân chính để kiếm tiền. Mơ mộng không có lỗi, nhưng đừng lấy cái nghèo làm chuẩn mực, đừng đặt nó lên tượng đài.
* Vì sao anh lại phải viết kịch bản phim, dù sau này với hàng loạt kịch bản phim truyền hình hấp dẫn khán giả như Đồng tiền xương máu, Hướng nghiệp, Blouse trắng... và một số phim truyện nhựa tiêu biểu như Lưới trời chứng minh sự sắc sảo của anh, thì độc giả vẫn nhớ nhiều đến Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao Chàm, rồi sau là Ngoại tình, Yêu như là sống - từng làm dậy sóng văn đàn?
- Nhiều người bảo tôi: viết phim làm gì, nó hỏng bút đi. Tôi không nghĩ thế. Không chỉ viết phim, tôi còn viết báo. Và với tôi nghề viết không có chính, phụ, tay trái, tay phải. Cái gì cũng phải làm hết mình. Một cuốn tiểu thuyết 300 trang bán được 4 triệu, trong khi một kịch bản phim nhiều tập 30-40 triệu đồng thì sao không làm? Phải sống để nuôi lấy cái hứng thú lâu dài của mình. Vả lại khi đó, sách không còn bán chạy được như trước. Nếu Đứng trước biển, Cù lao Chàm đều từ 150.000 bản trở lên... thì đến "Bốn bàn tay trắng", "Phần hồn"... số lượng đã giảm.
* Anh làm gì để bứt khỏi sự ghen tỵ của đồng nghiệp, điều mà có thể nước khác cũng có nhưng ở ta nó mang tính tiểu nông nhiều hơn. Điều mà nhà văn Hoàng Ngọc Hiến bảo: nước mình nó thế!
- Đừng giao dịch với đồng nghiệp. Tôi có nhiều bạn thân, ít bạn văn. Bạn bè trong giới y học rất nhiều. Có thể vì tôi gốc gác thợ thuyền nên rất bình tĩnh. Tôi đã từng bị truy tố ra toà, bị đốt sách. Cuốn tiểu thuyết "Cù Lao Chàm" của tôi ra đời bị công kích dữ dội. Lúc mà người ta đang ca ngợi kinh tế miền Tây, vựa thóc, vựa lúa của cả nước, văn hoá óc Eo... thì "Cù lao Chàm" của tôi lại như một tiếng nói phản biện (thời gian sau, những lập luận về kinh tế của tôi trong cuốn sách đã được chứng mình là đúng, nó đã mang tính dự báo). Thế mà Hội Nhà văn VN, Hội Nhà văn thành phố không có một lời nào, cử chỉ nào để bênh vực tôi. Thời gian đó chỉ trơ ra hai vợ chồng. Thế là tôi ra khỏi Hội.
Rồi vụ án tôi bị bôi nhọ là phim "Tướng cướp Bạch Hải Đường". Phim tôi viết về Bạch Hải Đường thời hiện đại. Trong khi năm 1957 ở miền Nam có một vở cải lương về Bạch Hải Đường lấy cốt truyện từ một phim Hồng Kông. Một thằng đểu ở Sài Gòn xem phim và viết lại một kịch bản khác ghi ngày tháng năm 1975 rồi phát đơn kiện tôi ăn cắp bản quyền. Các tờ báo lớn không can thiệp. Tôi bị đánh hội đồng bằng những tờ báo lá cải. Sau hai phiên toà tôi trắng án.
* Anh là nhà văn viết về nhiều lĩnh vực nhất: sinh ra ở Hà Nội nhưng viết về nông thôn Nam Bộ trong Cù lao Chàm, những người đánh cá trong Đứng trước biển, những người nuôi bò sữa trong Phần hồn, dân càphê thành phố trong Yêu như là sống... với lối viết rất hiện đại...
- Cuộc sống của tôi: ba chìm bảy nổi. Tôi không đi thực tế, vì cuộc sống của tôi đã trải qua nhiều nghề, nhiều thời đoạn. Mỗi khi viết một cuốn gì, tôi đọc rất kỹ. Khi viết Cù lao Chàm, tôi phải mò đọc sách về kinh tế nông nghiệp, chính sách về hợp tác hoá nông nghiệp, các khu định cư... Hay mới đây khi viết kịch bản phim lịch sử Trần Thủ Độ, tôi bỏ ra 3 triệu đồng khuân về một đống sách. Nhưng điều quan trọng là hãy sống thật với những khát vọng, lãng mạn của mình. Tôi chỉ sợ sự trùng lặp chính mình trong cách viết.
* Sự lý giải của anh về trường hợp "sớm nở tối tàn" của một số cây bút trẻ từng được chờ đợi rất nhiều để rồi nhanh chóng mất hút trên văn đàn?
- Nhà văn viết về những người xung quanh mình trước rồi mới viết về mình. Còn viết về bản thân sẽ nhanh hết vốn, dù anh đắc ý. Với văn học, ba yếu tố quan trọng nhất xếp thứ tự là tư tưởng- cấu trúc- ngôn ngữ. Còn dễ nổi nhất là tung hứng ngôn ngữ và đạp đổ thần tượng. Có người hỏi tôi: sách ông sống được bao năm? Tôi bảo: tồn tại trong 3 năm đã là quá tốt. Năm thứ 4, người ta quên thì tôi viết cuốn khác.
Nguyễn Mạnh Tuấn là một người biết từ chối đúng lúc, biết đặt vòng kim cô cho mình. Những thành công mà anh gặt hái không phải là cuộc đời ưu đãi anh, mà đúng hơn là sự công bằng của cuộc đời đối với những gì anh đã phải nếm trải cả sự nhọc nhằn, nỗi cay đắng... Khi tôi hỏi điều quan trọng nhất với anh trong cuộc đời? Anh đã trả lời: Giữ được nhân cách.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận