Nhà văn, dịch giả tuyển chọn và dịch trong tuyển tập Không thể sống mà không viết.
Ta gặp lại trong cuốn sách những con người xuất chúng: Raymond Carver, Gabriel Garcia Marquez, Chinua Achebe, Pablo Neruda, Carlos Fuentes, Paul Auster, Orhan Pamuk, Toni Morrison, Haruki Murakami, Ted Hughes, Sylvia Plath, Harold Pinter và Italo Calvino, với chuyện nghề và chuyện đời thường của họ.
Đó là những trò chuyện giúp ta hiểu thêm nhiều điều về tuổi thơ của các nhà văn, con đường đưa họ đến với văn chương, những ai gây ảnh hưởng đến họ lúc mới vào nghề, thế giới nội tâm, cuộc sống cá nhân, phong cách và cả quá trình rèn luyện kỷ luật để trở thành những tác gia nổi tiếng toàn cầu.
Ta cũng hiểu thêm ý nghĩa của việc viết văn với họ, cách họ đối mặt với sự danh tiếng, con cá mập truyền thông và rất nhiều thứ lý thú khác. Ngoài nỗi tò mò của độc giả được lấp đầy, đấy còn là những bài học vô cùng bổ ích dành cho những người muốn theo đuổi con đường văn chương.
Khi được hỏi về việc từ bỏ các giá trị của thời thơ ấu và trải nghiệm để viết thứ cao xa như chính ông từng làm thuở ban đầu vào nghề văn (cũng là đặc điểm chung của những người viết trẻ), Marquez, trong bài phỏng vấn năm 1981 (một năm trước khi ông được trao giải Nobel văn chương cho tiểu thuyết Trăm năm cô đơn), trả lời:
"Nếu phải nói với người viết trẻ một điều gì đấy, lời khuyên của tôi sẽ là: Hãy viết về những gì xảy ra với mình; bao giờ cũng dễ khi kể một câu chuyện gì đó đã xảy ra với mình, hay mình đã được nghe, được đọc".
Marquez đề cao kỷ luật của nhà văn: "Tôi không nghĩ có ai viết được một cuốn sách xứng đáng mà không ép mình vào kỷ luật khắc nghiệt". "Thế còn các chất kích thích?".
Marquez trả lời: "Tôi rất ấn tượng với một ý của Hemingway đã viết khi ông so sánh viết văn với đấm bốc. Ông ấy phải giữ gìn sức khỏe và sự sảng khoái. Mọi người biết tiếng tăm của Faulkner là một tay say sưa, nhưng trong các cuộc phỏng vấn ông đều khẳng định không thể viết lấy một dòng nếu ông say. Hemingway cũng nói thế.
Có những người đọc kém cỏi hỏi tôi có dùng ma túy khi viết tác phẩm nào không. Điều đó cho thấy họ chẳng hiểu gì về nghề viết hay chất kích thích. Để trở thành một người viết giỏi, anh cần tuyệt đối sáng suốt trong từng khoảnh khắc làm việc, và sức khỏe phải tốt.
Tôi cực lực phản đối thứ quan niệm lãng mạn cho rằng viết là một sự hi sinh, rằng nghèo khốn hay trắc trở tình cảm thì sẽ giúp viết hay hơn. Với tôi, người viết cần phải ở trong trạng thái cực tốt về thể lực cũng như tình cảm. Sáng tạo văn học đòi hỏi sức khỏe, và các nhà văn thuộc "Thế hệ bỏ đi" hiểu rõ điều này. Họ đều là những người viết yêu quý cuộc sống".
Paul Auster, Orhan Pamuk, Toni Morrison, Chinua Achebe... và đặc biệt là Haruki Murakami cũng có quan điểm tương tự về tính kỷ luật trong sáng tạo và viết văn của họ, điều đó lý giải tại sao họ giữ được sự nghiệp bền bỉ đến vậy:
"Nếu trong giai đoạn viết tiểu thuyết, tôi dậy lúc bốn giờ sáng và viết liên tục trong năm hay sáu tiếng. Buổi chiều tôi chạy mười kilômet hoặc bơi một ngàn năm trăm mét (hoặc thực hiện cả hai), rồi đọc một ít, và nghe nhạc gì đó. Tôi đi ngủ lúc chín giờ tối. Tôi duy trì lịch làm việc ấy một cách bất biến. Việc lặp đi lặp lại có vai trò quan trọng, vì đó là một kiểu thôi miên.
Tôi tự thôi miên chính mình để đạt được trạng thái sâu thẳm của ý thức. Nhưng nếu kéo dài quá sự lặp lại ấy - trong sáu tháng đến một năm - thì cần có một sức mạnh đáng kể về thể chất và tinh thần. Có thể hiểu viết một cuốn tiểu thuyết dài giống như một cuộc rèn luyện sống còn. Sức mạnh thể chất cũng cần thiết như sự nhạy cảm nghệ thuật".
Một trong những chủ đề quan trọng khác trong các cuộc đối thoại với các nhà văn lớn là ý nghĩa của việc viết văn. Vào thời điểm phỏng vấn năm 2005, một năm trước khi đoạt giải Nobel văn chương, nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Orhan Pamuk đã viết được 7 cuốn tiểu thuyết, tên tuổi ông đã nổi tiếng toàn cầu và ông muốn viết thêm từng ấy cuốn nữa trước khi chết.
Khi được hỏi "Ông viết cho ai?", Pamuk đã trả lời rằng: "Tôi ngày càng ít tin vào sự vĩnh cửu của người viết. Chúng ta đọc rất ít các tiểu thuyết ra đời cách đây hai trăm năm. Mọi thứ thay đổi nhanh đến nỗi sách hôm nay sẽ bị quên lãng trong một trăm năm tới. Chỉ rất ít cuốn còn được tìm đọc.
Hai trăm năm nữa, trong số sách thời đại này có lẽ chỉ còn năm cuốn sống sót được. Tôi có chắc mình có cuốn nào trong năm cuốn ấy không? Nhưng liệu đó có phải là ý nghĩa của việc viết văn? Tại sao ta phải bận tâm đến việc sách mình như thế nào sau hai trăm năm nữa.
Tôi cứ nghĩ về những điều này và tôi tiếp tục viết. Không biết tại sao. Nhưng tôi không bao giờ dừng lại. Niềm tin rằng sách của mình sẽ có vai trò gì đó trong tương lai là niềm an ủi duy nhất để ta vui sống trong đời".
Ngắn gọn hơn, nhà văn, nhà viết kịch người Anh Harold Pinter (đoạt giải Nobel văn chương năm 2005) trả lời: "Nhà văn chỉ có một việc là viết, tiếp tục viết".
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận