Bìa tiếng Pháp cuốn giáo khoa lịch sử Sơ học quy chánh in năm 1877 với trang nội dung về Hai Bà Trưng
Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa
Cuốn Ngữ pháp Annam yếu lược của ông là sách dạy cách đọc và học tiếng Việt đầu tiên do người Việt viết, được Trường Thông ngôn (Collège des Interprètes) cho in bằng thạch bản năm 1864, một phần sách này được nhắc lại trong cuốn lịch sử Việt Nam đầu tiên.
Năm 1867, cuốn sách này được in lại bằng máy in typo. Cuốn Alphabet Annamite (vần ) không rõ năm in đầu tiên nhưng năm 1876 in lần 2 là một trong những cuốn sách quan trọng đầu tiên dành cho người học chữ quốc ngữ.
Sách giáo khoa lịch sử
Năm sau, 1868, ông viết cuốn Nam thoại cơ phạm (Cour pratique de langue Annamite) dành cho học trò mới vào trường học tiếng Việt. Cuốn này năm 1876 được tái bản và sau đó tái bản nhiều lần, đến năm 1895 in lần thứ 5. Năm 1875, ông xuất bản cuốn Bài giảng lịch sử An Nam (Cours d’historie Annamite) với lời nói đầu như sau:
"Cho học trò. Các trường đất Nam Kỳ.
Ớ các trò, ta xin kiếng sách nầy cho các trò, vì làm ra nó là làm cho các trò coi. Dùng tiếng Phalangsa là tiếng đã rộng mà lại hay, chép truyện đất nước ta ra cho anh em coi cho quen thuộc tiếng ấy, trông rằng, lấy cái tiếng anh em đang lo học mà thuật lại truyện anh em đã biết thì sẽ giúp cho anh em dễ thông ý chí lắt léo và hiểu rõ cốt cách tiếng ấy hơn.
Nói tắt một lời, ta muốn làm ích cho anh em, chớ chi ước vậy mà được như làm vậy...
Đến sau khi anh em đã học thành tài, biết bắt, biết hạch [thi] thì hãy dung thứ cho kẻ lớp trước anh em, vì những kẻ ấy thuở trước chẳng có được những phương tiện mà học hành như anh em bây giờ...
Tại Chợ Quán, ngày 25 tháng Hai năm 1875 P.J.B Trương Vĩnh Ký".
Cuốn Manuel Écoles Primaires còn có tên là Sơ học quy chánh do Nhà in Nhà nước xuất bản năm 1876 và tái bản rất nhiều lần ngay sau đó có thể coi là cuốn sách lịch sử Việt Nam đầu tiên tóm tắt bằng chữ quốc ngữ từ đời Hùng Vương đến đời Gia Long.
Phải đến năm 1906 mới có cuốn Đại Nam quốc lược sử của Alfred Schreiner và đến năm 1919, cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim mới ra đời.
Trong lời mở đầu bằng tiếng Pháp, ông Trương Vĩnh Ký viết: "Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ nầy bằng mọi phương tiện".
Phần đầu sách có bảng mẫu tự, dấu, cách viết chữ, số; có bài tập đọc; có bài Khuyến học ca; cách dạy... Trong bài cách dạy, ông viết "Phân lớp ra mà dạy cho dễ: Như học trò đã biết viết, biết đọc thì bắt nó viết mò (chánh tả), bắt nó đọc một đoạn sách cho lẹ, cho xuôi. Viết mò thì lấy những tuồng, vãn, thơ, phú mà nói cho nó viết, viết rồi thì thầy coi mà sửa lại cho nó, cho chính câu chính chữ.
Còn mỗi bữa học, bắt nó kiếm câu hát, câu đối, lời phương ngôn tục ngữ, diêu ngôn... mà viết ra một đôi câu chẳng hạn, đem tới nộp cho thầy sửa, góp những cái ấy lại để một nơi...".
Chuyện Hai Bà Trưng
Những bài học trong sách thì ngắn gọn mà đầy đủ tình tiết, dễ đọc, dễ nhớ trước nay chưa thấy ai viết được như vậy. Về Hai Bà Trưng, ông viết:
"Bà Trưng Trắc đánh với Mã Viện.
Năm Canh Tí, sau Chúa giáng sanh 40 năm, là 7 năm sau Đức chúa Gi giu (Jésu) thăng thiên, tháng hai bà nữ vương Trưng Trắc là con gái ông quan Lạc tướng ở huyện Mê Linh, xứ Giao Chỉ, nguyên là vợ người Thi Sách ở huyện Châu Diên (đời nay là phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây), bị người Tô Định là quan Thái thú lấy phép riêng mà giết đi, nên giận lo trả thù cho chồng, bèn hiệp cùng với em gái là Trưng Nhị cùng kẻ tâm phúc lập binh dậy giặc kéo tới hãm thành.
Người Tô Định chạy riết về Nam Hải về Tàu đi. Khi ấy Cửu Chơn, Nhựt Nam, Hiệp Phố đều ứng theo, phía Lãnh Nam 65 thành cũng đều phục hết, thì bà Trưng Trắc xưng vương đóng đô tại Mê Linh.
Qua tháng chạp năm sau bên Đông Hán (Kiến Võ 17) sai ông tướng Mã Viện kéo binh bộ thủy qua đánh. Qua đến tháng 3 năm sau nữa (Nhâm Dần 42 SGS) quân ông Mã Viện tới Lang Bạc (bây giờ là Tây Hồ tại Hà Nội), bà Trưng Trắc thấy binh nghịch mạnh lắm, liền lui về giữ Cẩm Khê (ở tại địa hạt Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây). Sau ra cự chiến thua đi chết cả hai chị em. Dân có lập miễu tại tỉnh để thờ hai chị em, là nữ anh hùng.
Ông Mã Viện lấy lại được nước Annam thì lập một cái đồng trụ tại đất Khâm Châu nơi Cô Lâu Động; mà có khắc lời thệ rằng "đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" nên kẻ qua người lại sợ nó ngã, lấy đá, lấy gạch, miểng sành mà ném vào dưới chơn nó cho vững, hóa ra lâu đời biệt tích mất đi, bây giờ không biết chắc chỗ nào mà nhìn".
Có thể một số chi tiết chưa phù hợp với quan điểm lịch sử hiện tại nhưng một bài sử như thế nầy thì dễ học, dễ nhớ và không làm cho học sinh sợ môn sử! Đây cũng là phương pháp chung trong việc viết sách giáo khoa thuở ấy, lấy ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ làm đầu.
Kẻ sĩ
Để học sinh có sách tham khảo, sách học, Trương Vĩnh Ký viết hàng loạt sách nhằm mục đích giúp cho người học chữ quốc ngữ có điều kiện tốt hơn để tiếp cận thứ chữ mới này, đồng thời đẩy nhanh quá trình phổ biến chữ quốc ngữ.
Dành một đời cho chữ quốc ngữ nhưng ông luôn đứng giữa hai lằn đạn, bên khen bên chê. Cả đời, dù cộng tác với người Pháp nhưng ông không chịu vào Pháp tịch, luôn ăn mặc theo kiểu người Nam.
Khi Đốc phủ Trần Tử Ca gửi thơ hỏi tại sao ông không vào Pháp tịch, ông đã trả lời: "Tại sao tôi không vô dân tây... Tôi lấy sự ấy làm trái tự nhiên không ăn thua vào đâu cũng như chuyện đời xưa bên Tây nói (về) con kên kên lượm lông công giắt vào mình rồi nhảy vào bầy công...
Thật như vậy, không lý trời sanh tôi ra là con quạ bây giờ biểu tôi thì một hai nói tôi là con cò làm sao đặng?".
Đó chính là cách nghĩ của một kẻ sĩ!
May mắn
Điều may mắn là Trương Vĩnh Ký có một học trò giỏi nối gót tiếp tục con đường phổ biến chữ quốc ngữ. Đó là ông Trương Minh Ký, người viết nhiều sách giáo khoa, dịch thuật các tác phẩm phương Tây và sáng tác bằng chữ quốc ngữ.
Và cũng nhờ những người tiền phong như hai ông Ký này, dám vượt qua những rào cản để đưa chữ quốc ngữ đến mọi người, để hôm nay thứ chữ này trở thành tài sản vô giá của chúng ta, của người Việt.
Cuốn Văn phạm tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký in năm 1883
TTO - Bộ tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt của nhà văn Lê Hoằng Mưu lần đầu tiên được công bố trọn vẹn sau 104 năm 'tuyệt tích giang hồ'._______________________________
Kỳ tới: Nhà báo Trương Vĩnh Ký
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận