Ảnh minh họa. Nguồn: vienyhocungdung.vn
"Thuốc viên to khó uống thì bẻ nhỏ ra cho dễ uống" là quan điểm sai lầm của nhiều bệnh nhân. Vì sao?
Thuốc được bào chế thành nhiều dạng khác nhau, và dùng theo các đường dùng khác nhau. Với cùng một dược chất, khi bào chế dưới các dạng thuốc khác nhau, dùng theo các đường dùng khác nhau có thể dẫn đến tác dụng lâm sàng khác nhau.
Khi một dạng thành phẩm ra đời, các nhà bào chế đã nghiên cứu tính toán sao cho quá trình dược chất được giải phóng, hòa tan và hấp thu vào cơ thể đáp ứng phù hợp với nhu cầu điều trị của bệnh nhân.
Khi bệnh nhân tự ý bẻ nhỏ viên thuốc, hoặc nghiền nát tức là đã vô tình làm thay đổi dạng bào chế của thuốc, làm ảnh hưởng đến tác dụng dược lý cũng như sinh khả dụng của thuốc, có thể gây ra tình trạng không đủ liều hoặc quá liều, biến đổi hoạt chất… làm cho thuốc không đạt được hiệu quả điều trị mong muốn, thậm chí gây độc tính.
Trên thực tế, việc nghiền thuốc hay bẻ ra cho dễ uống không mang lại lợi ích mà còn có thể gây hại cho chính người sử dụng thuốc, thậm chí có trường hợp dẫn đến tử vong.
Một số dạng thuốc viên tuyệt đối không nghiền hay bẻ gãy:
Dạng thuốc viên bao tan ở ruột
Đây là dạng thuốc không tan ở dạ dày mà chỉ tan ở đầu ruột non tức tá tràng và phóng thích dược chất ở ruột.
Mục đích thuốc bao tan ở ruột: Ngăn ngừa dược chất phóng thích ở dạ dày, gây hại cho niêm mạc dạ dày ví dụ thuốc Aspirin pH8. Ngoài ra một số thuốc dạ dày dạng PPI (thuốc ức chế bơm Proton: Esomeprazol, Omeprazol, Rabeprazol, Pantoprazol…) phải bào chế ở dạng viên bao tan trong ruột để hoạt chất phóng thích và hấp thu ở ruột mới cho tác dụng. Nếu nghiền hay bẻ viên, hoạt chất sẽ bị phân hủy bởi acid ở dạ dày.
Dạng thuốc phóng thích dược chất kéo dài
Tên thuốc loại này thường kèm với chữ Adalate LP, Procan SR, Adalat LA, nghĩa là "có tác dụng kéo dài" hoặc "tác dụng chậm".
Đây là dạng thuốc có bao một lớp màng mỏng đặc biệt hoặc có khung trơ matrix chứa thuốc, sẽ phóng thích dược chất trong suốt thời gian di chuyển trong ống tiêu hóa để tác dụng kéo dài (phóng thích dược chất trong 12 giờ hoặc 24 giờ). Vì vậy chỉ cần uống 1, 2 lần trong ngày thay vì uống 3 đến 4 lần đối với dạng thuốc cổ điển như trước đây.
Đặc biệt, loại thuốc này cần phải uống đúng cách, đúng số viên, đúng số lần trong ngày theo chỉ định. Nếu nhai, bẻ nhỏ lượng lớn hoạt chất sẽ được phóng thích cùng một lúc, có thể gây quá liều rất nguy hiểm.
Ví dụ: liều tác dụng của nifedipin là 10mg, khi dùng viên tác dụng kéo dài (biệt dược Adalat retard) thì hàm lượng mỗi viên đến 20mg. Nếu ta bẻ hay nhai thì thuốc sẽ không còn tác dụng kéo dài mà phóng thích nhanh ra một lúc cả 20mg nên sẽ làm tăng gấp đôi liều gây ra tụt huyết áp.
Đối với hai dạng thuốc trên tuyệt đối không bẻ nhỏ, không nghiền mà phải để nguyên viên để uống.
Một số dạng viên khác cũng cần lưu ý cách dùng hay đường dùng thuốc:
- Dạng thuốc để ngậm dưới lưỡi
Ưu điểm của dạng thuốc này:
Thứ nhất: Dưới lưỡi có hai tĩnh mạch lớn, trong miệng có nhiều mạch máu nhỏ. Đặt thuốc dưới lưỡi, thuốc sẽ ngấm vào hai tĩnh mạch lớn, hoặc ngậm thuốc ở miệng thuốc sẽ đi vào các mạch máu nhỏ và có thể cả tĩnh mạch lớn rồi vào thẳng hệ tuần hoàn mà không bị phá hủy bởi dịch vị hay enzym trong đường tiêu hoá, không bị gan chuyển hóa như khi uống. Các viên alphachymotrypsin, progesteron, mehtyltestosteron… thường có cách dùng này.
Thứ hai: Thuốc đi thẳng vào hệ thống tuần hoàn nên có hiệu quả nhanh, không kém như khi tiêm. Ví dụ trong cơn tăng huyết áp cấp tính, nếu không hạ cấp thời huyết áp xuống (hoặc trong 1 giờ, hoặc trong 24 giờ tuỳ theo cơn cấp) thì các cơ quan đích sẽ bị tổn thương, có thể dẫn tới tử vong. Nhưng nếu dùng viên catopril 50 mg đặt dưới lưỡi, chỉ trong vòng 15 phút huyết áp giảm được 60mmHg. Như vậy bằng cách dùng này, có thể đưa huyết áp từ mức cao nguy hiểm (trên 200mmHg) xuống mức chấp nhận được (150-160 mmHg), tránh được các biến cố.
Tương tự, trong bệnh xơ vữa động mạch vành, có lúc máu không đi đến và cung cấp đủ oxy cho cơ tim, dẫn đến sự thiếu máu cục bộ, gây chứng đau thắt ngực. Đặt viên nitroglycerin vào dưới lưỡi, sẽ làm giãn ngay mạch, thư giãn hệ mạch chủ yếu vùng tĩnh mạch, làm giảm máu trở về tĩnh mạch, kéo theo sự giảm áp suất trong tim và sự tái phân bố luồng mạch vành vào các lớp dưới (nhạy cảm với sự thiếu máu cục bộ) trong tim; mức tiêu thụ oxy của cơ tim do đó giảm đi, lập lại sự cân bằng cung-cầu oxy, hủy chứng đau thắt ngực, tránh được các biến cố nhồi máu cơ tim, đột quỵ.
Vì vậy, đối với dạng viên này, nên được dùng đúng dạng đường dùng là đặt dưới lưỡi. Nếu dùng đường uống tác dụng sẽ giảm đi hoặc không kịp thời để điều trị.
- Dạng thuốc sủi bọt
Là dạng thuốc cần được bảo quản tốt tránh ẩm để giữ nguyên hoạt chất, và chỉ uống khi đã được hòa tan hoàn toàn trong lượng nước vừa đủ để sủi bọt. Không được bẻ nhỏ hay bỏ nguyên viên vào miệng uống bởi dạng thuốc này chứa tá dược rã sinh khí là natri carbonat hoặc natri bicarbonat. Khi uống vào sẽ gây phản ứng có hại cho đường tiêu hóa.
- Thuốc chứa dược chất rất đắng hoặc gây hại cho một số người nếu tiếp xúc.
Ví dụ thuốc Betapen – VK, Cipro có chứa vị rất đắng nếu bẻ nhỏ, hay nghiền ra thì có nhiều người không chịu nổi vị đắng khó chịu của dược chất. Hoặc thuốc posicor… nếu cà nhuyễn hoặc mở viên nang, bột thuốc sẽ phân tán, tiếp xúc với da hoặc niêm mạc gây ngứa, gây kích ứng khó chịu ở da.
Lời khuyên của bác sĩ: Nếu bệnh nhân bị chứng khó nuốt thì nên nói cho bác sĩ biết và xin ý kiến, theo đó bác sĩ sẽ thay thế những thuốc khác có dạng bào chế hoặc đường dùng khác thích hợp hơn.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận