Khai thác dầu khí tại mỏ Bạch Hổ
Khoa học công nghệ luôn là nhiệm vụ xuyên suốt, là động lực và nền tảng trong suốt 60 năm phát triển của tập đoàn, được nêu trong các nghị quyết, chiến lược. Nhờ vậy, PVN đã liên tục nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng, chủ động tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, tối ưu hiệu quả để đạt trình độ công nghệ ngang bằng khu vực và trên thế giới.
Dấu ấn từ những công trình
Nhưng có một điều khá đặc biệt là trong công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ này, dầu khí đều khởi đầu và bắt tay vào thực hiện với tâm thế của "con nhà nghèo".
Như cụm công trình "Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thu gom, xử lý và sử dụng khí đồng hành ở các mỏ của Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro và các mỏ lân cận" bắt đầu từ năm đầu tiên của thập niên 1990, liên doanh khi đó mới khai thác được dầu tại Bạch Hổ, với công nghệ chỉ khai thác dầu, còn khí đồng hành phải đốt bỏ.
Trong khi đó, đất nước đang thiếu điện trầm trọng nên đã thôi thúc cán bộ của Vietsovpetro nghiên cứu và thực hiện thu gom khí, vận chuyển, chế biến đưa khí đồng hành vào bờ để phát điện, sản xuất phân đạm.
Kết quả năm 1995, sau khai thác dầu, bằng những giải pháp khoa học công nghệ đột phá, trong điều kiện thiếu thốn cơ sở vật chất, Vietsovpetro lại tiên phong đưa khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ vào bờ, tạo nên bước nhảy vọt của ngành dầu khí Việt Nam, tạo nền tảng cho phát triển công nghiệp khí hiện đại.
Hay trong nghiên cứu chế tạo hệ thống trạm đo carota tổng hợp xách tay TBM-02, từ những năm đầu thập niên 90, khi những tấn dầu đầu tiên xuất khẩu thu về ngoại tệ, Vietsovpetro đã nhận ra phải học bằng được công nghệ thăm dò khai thác dầu khí của nước bạn.
Ông Nguyễn Xuân Quang - giám đốc Xí nghiệp Khoan & Sửa giếng Vietsovpetro - kể ngành dầu khí khi đó hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ của Liên Xô từ trang thiết bị đến đào tạo. Trong khi công nghệ tại Vietsovpetro xử lý minh giải thủ công nên không đạt được chất lượng có thể cạnh tranh quốc tế, khi các đơn vị làm dịch vụ tại Việt Nam chỉ mất dưới 1 tuần.
Sơ đồ thu gom và vận chuyển khí đồng hành từ WHP-CNV mỏ Cá Ngừ Vàng đến CPP-3 mỏ
Không để bị đào thải khỏi cuộc chơi dịch vụ dầu khí, các cán bộ Vietsovpetro đã nhặt nhạnh cả các thiết bị thuộc dạng "không thể sửa chữa, không thể tìm mua" để mổ xẻ, nghiên cứu, rồi tích hợp những tính năng ưu việt nhất và chế tạo ra một trạm đo carota tổng hợp có giá thành chỉ 5.000 USD, bằng chưa đầy 10% so với giá thiết bị tương tự nếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Đáng chú ý, thiết bị này chỉ nặng chưa đến… 10kg, được gọi là hàng "xách tay", trong khi các thiết bị của Nga trước đây có khối lượng cả trăm kg. Đây được đánh giá là thiết bị nhỏ gọn và có nhiều tính năng ưu việt nhất trên thế giới hiện nay khi so sánh với cả các sản phẩm của các nhà chế tạo thiết bị dầu khí hàng đầu thế giới như Haliburton (Mỹ), Huangding (Trung Quốc)…
Hay câu chuyện của Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông (BIENDONG POC) thực hiện công trình lớn của dự án Biển Đông 1 với khối lượng công trình lên tới hàng chục nghìn tấn - vượt gấp nhiều lần các công trình trước đó nên nhiều chuyên gia cho rằng bất khả thi. Khi đó, Công ty Dịch vụ Cơ khí hàng hải PTSC (PTSC & MC) - đơn vị được giao trọng trách - tưởng chừng như bị dồn vào chân tường khi xuất phát gần như là con số không đã hoàn thành dự án sau đúng 2 năm.
Đến nay, PTSC&MC đã trở thành nhà thầu EPCI (xây dựng - lắp đặt - vận hành và chuyển giao) quốc tế duy nhất của Việt Nam vươn ra thị trường thế giới, được chủ đầu tư các quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản, Ghana, Qatar… tin tưởng, giao thầu các dự án có giá trị lên tới hơn 600 triệu USD.
Động lực và nền tảng để phát triển bền vững
Tại Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam khi mới vận hành đều là "học việc" nên không tránh khỏi va vấp, sự cố, chất lượng thì "phập phù". Do đó, việc cải tiến, ứng dụng khoa học công nghệ luôn được chú trọng, với hơn 30 giải pháp, sáng kiến giúp nhà máy nâng công suất, đảm bảo chất lượng, ổn định tài chính.
Với sự chủ động nghiên cứu, nhiều công trình mang lại hiệu quả, làm lợi hàng nghìn tỉ đồng. như giải pháp sớm đưa khí đồng hành tại các mỏ dầu ngoài khơi về bờ mang lại lợi nhuận phát điện tới hàng chục ngàn tỉ đồng; hệ thống trạm đo carota tổng hợp xách tay TBM-02 làm lợi được khoảng 2.636 tỉ đồng; hay các giải ứng dụng tại Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã làm lợi khoảng 4.270 tỉ đồng…
Đến nay, khoa học công nghệ được áp dụng trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh của PVN. Từ nghiên cứu điều tra cơ bản, giúp đưa ra quyết sách, chủ trương đúng đắn, mở ra các hướng nghiên cứu chuyên sâu, nghiên cứu tìm kiếm các loại dầu khí phi truyền thống như khí than, khí sét, khí hydrate…
Toàn cảnh Nhà máy lọc dầu Dung Quất
Nhiều hoạt động khuyến khích tham gia vào nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức phong phú như các hội thi sáng tạo; vinh danh xứng đáng các công trình sáng kiến, sáng chế; tổ chức các hội nghị, hội thảo KHCN trong nước và quốc tế; mở các diễn đàn để trao đổi, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và giải pháp quản lý…
Đặc biệt, tập đoàn cũng chú trọng vào việc quản lý công nghệ là nhân tố chính của tiềm lực công nghệ, có tầm quan trọng sống còn. Điều này làm tăng tốc độ của quá trình tiếp thu, đồng hoá, phổ biến công nghệ nhập, tăng được khả năng lựa chọn công nghệ một cách độc lập, giúp hoàn thiện và cải tiến các kỹ thuật đã được chọn và dần dần tạo ra được các công nghệ nội sinh.
Nhiều nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học công nghệ
Trong nngày Khoa học Công nghệ Việt Nam, Chủ tịch HĐTV Petrovietnam Hoàng Quốc Vượng đã có thư gửi tới các tập thể, cá nhân, các thế hệ cán bộ nghiên cứu và quản lý Khoa học Công nghệ (KHCN), những người tham gia các hoạt động nghiên cứu KHCN trong toàn Tập đoàn.
Theo đó nhấn mạnh năm 2021, tập đoàn bắt đầu triển khai thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học giai đoạn 2021-2025, với những chương trình KHCN trọng điểm, mang tính đột phá. Đây sẽ là cơ sở nền tảng để phát triển sản phẩm, dịch vụ chủ lực, mang thương hiệu Dầu khí Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Chủ tịch HĐTV cũng yêu cầu, trong bối cảnh hiện nay, các đơn vị cần tập trung nguồn lực thực hiện kế hoạch KHCN có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời mong muốn đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý KHCN trong toàn tập đoàn nỗ lực hơn nữa, không ngừng đổi mới sáng tạo, kịp thời nắm bắt, tích cực ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn cũng như các đơn vị, phát huy hơn nữa vai trò KHCN, tạo ra những giải pháp đột phá, góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận