Nên đẩy mạnh các tài trợ nghiên cứu

TRẦN ĐÔNG HẢI 01/12/2012 21:12 GMT+7

TTCT - Trước nay, một vấn đề lớn thường được đặt ra liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam là tình trạng thiếu vắng các nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí quốc tế của những tác giả người Việt.

Phóng to
Các học giả nước ngoài trả lời báo chí về vấn đề biển Đông tại hội thảo quốc tế về biển Đông diễn ra từ ngày 19 đến 21-11-2012 tại TP.HCM - Ảnh: Thuận Thắng

Ai cũng biết nhiều yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông, nhất là câu chuyện về đường chín đoạn, là những yêu sách “lãng xẹt”, vô căn cứ, thể hiện sự tham lam không thể chấp nhận. Vì vậy, chuyện biện minh một cách khoa học và có tính thuyết phục cho các yêu sách đó là việc khó. Việt Nam vẫn được coi là có cơ sở vững vàng hơn cả về mặt pháp lý và thực tế, lẫn sự hợp lý trong các yêu cầu của mình về biển Đông.

Các nghiên cứu khoa học thường được coi là chuẩn mực theo các tiêu chí khoa học, và vì thế ít nhiều khách quan hơn vì phải dựa trên bằng chứng cũng như dẫn chiếu chéo. Việt Nam có cơ sở vững vàng hơn nhưng nếu Việt Nam thiếu đội ngũ nghiên cứu, phân tích, trình bày, khai thác các cơ sở này để bảo vệ mình trên mặt trận khoa học, thì phía Trung Quốc dù có cơ sở thiếu thuyết phục hơn, nhưng với đội ngũ chuyên gia hùng hậu hơn sẽ dần dần lấn át.

Các bằng chứng, phân tích và lập trường của họ, qua thời gian sẽ được trích dẫn thường xuyên hơn và có thể trở thành điều mà tâm lý học đã mô tả: “Một lời dối trá được nhắc đi nhắc lại nhiều lần sẽ thành điều mà người ta tin là thật”.

Ngoài khía cạnh khoa học, các nghiên cứu được xuất bản trong các ấn phẩm uy tín của quốc tế còn có vai trò nhất định trong việc tuyên truyền. Trong cuộc chơi tuyên truyền và chuẩn bị dư luận, ai nói nhiều hơn, to hơn và bền bỉ hơn thì người đó sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.

Vì thế, việc tăng cường sự hiện diện của các nghiên cứu khai thác những cơ sở vững pháp lý và thực tế, phân tích và bảo vệ các đòi hỏi chủ quyền chính đáng của Việt Nam trên biển Đông, cũng như phê phán các lập trường cạnh tranh, bành trướng của Trung Quốc là việc làm cấp bách. Đã có nhiều giải pháp được đặt ra, trong đó có việc đào tạo đội ngũ nghiên cứu của Việt Nam về các vấn đề liên quan đến biển Đông và tổ chức các hội thảo khoa học quốc tế.

Cần một chương trình bài bản

Trong hai hướng này thì việc xây dựng đội ngũ nghiên cứu của Việt Nam xem ra chưa có kế hoạch và chương trình bài bản. Và nếu muốn làm bài bản, Việt Nam cũng cần tới nhiều năm để có thể hình thành một đội ngũ nghiên cứu mới có khả năng xuất bản các ấn phẩm trên những tạp chí nghiên cứu uy tín của thế giới.

Hướng thứ hai là việc tổ chức các hội thảo quốc tế đã được triển khai thường xuyên trong vài năm trở lại đây, như Hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông lần 4 với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực” do Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia tổ chức vừa kết thúc hôm 21-11 vừa qua. Đây là lần thứ 4 hội thảo này được tổ chức, quy tụ được nhiều chuyên gia đến từ nhiều nước cùng quan tâm đến lĩnh vực này và đã có một số nghiên cứu thú vị được trình bày.

Việc tổ chức hội thảo là một sáng kiến tốt. Nó tạo ra một sân chơi cho những nhà nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực này có dịp gặp gỡ và trình bày lập trường của mình. Nó cũng là dịp để quốc tế quan tâm hơn về tranh chấp trên biển Đông và cho thấy vai trò chủ động của nước chủ nhà Việt Nam trong câu chuyện kết nối và điều phối hoạt động khoa học liên quan đến lĩnh vực này. Vì thế, đóng góp của các nhà tổ chức cần được ghi nhận.

Nghiên cứu khoa học, cũng như mọi hoạt động khác của cuộc sống, cũng bị lợi ích chi phối. Người nghiên cứu tập trung làm nghiên cứu ngoài động cơ chủ yếu là lòng đam mê, tinh thần yêu nước, còn vì danh tiếng và đôi khi cả nguồn tài trợ. Danh tiếng trong nghiên cứu được định nghĩa khá giản đơn ở chỗ các công trình của họ được xuất bản trên các tạp chí lớn và sau khi xuất bản thì được nhiều người trích dẫn. Tiền bạc đến từ lương bổng, các giải thưởng và các gói tài trợ nghiên cứu.

Tự xây dựng lực lượng nghiên cứu của Việt Nam sẽ mất rất nhiều thời gian, trong khi tổ chức các hội thảo thì lại khó kiểm soát được hướng đi của các nghiên cứu được thuyết trình, cũng như không tạo ra động cơ thật sự mạnh cho giới nghiên cứu. Vậy có con đường nào khác?

Phóng to
Tại Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ 4 (khai mạc ngày 26-11 tại Hà Nội), nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài đã cùng các đồng nghiệp Việt Nam thảo luận về chủ đề biển Đông. Trong ảnh: GS Carl Thayer (Úc - hàng trước) và GS Lokshin Grigory (Nga - hàng sau), cả hai đều có thể trao đổi trực tiếp về vấn đề biển Đông bằng tiếng Việt - Ảnh: Hương Giang

Outsourcing (*) nghiên cứu bằng các gói tài trợ

Thực tế thì giải pháp này không phải là một ý tưởng mới mẻ. Nó đã được dùng và đang được dùng khắp nơi trên thế giới. Khi các tổ chức, công ty hoặc chính phủ muốn đẩy mạnh nghiên cứu trong một lĩnh vực nào đó, như tế bào gốc, công nghệ nano, biến đổi khí hậu hay xóa đói giảm nghèo, việc mà họ vẫn thường làm là lập ra các quỹ nghiên cứu để tài trợ cho các nghiên cứu này.

Để giải quyết việc thiếu vắng các công trình nghiên cứu về những vấn đề trên biển Đông trên các tạp chí quốc tế, Việt Nam có thể lập ra một quỹ tài trợ (“grant”) về biển Đông. Các quỹ này sẽ đưa ra những tiêu chí nhất định cho các nghiên cứu được tài trợ. Các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới có thể nộp đề xuất nghiên cứu cho một ban xét duyệt bao gồm các học giả quốc tế đầu ngành về các vấn đề xung đột và giải quyết xung đột lãnh thổ/lãnh hải.

Việc xét duyệt các đề án nghiên cứu sẽ tùy thuộc vào tiêu chí của quỹ tài trợ và chất lượng của đề án. Thông qua việc đặt ra các tiêu chí của quỹ tài trợ cũng như qua quá trình xét duyệt đề án, Việt Nam có thể định hướng cho các nghiên cứu được tài trợ sao cho có lợi nhất cho mình. Nói cách khác, chúng ta có thể outsource việc nghiên cứu về biển Đông cho các chuyên gia nước ngoài.

Giải pháp này thú vị ở rất nhiều điểm:

Thứ nhất, nó có thể được triển khai bất kỳ lúc nào và với chi phí không quá lớn. Thí dụ, nếu Việt Nam lập ra một quỹ tài trợ khoảng 2 triệu USD mỗi năm thì đã có thể tài trợ được khoảng 20 nghiên cứu có chất lượng cao do các chuyên gia nước ngoài đảm nhiệm.

Thứ hai, các học giả nhận tài trợ sẽ có động cơ rất mạnh mẽ để công trình của họ được xuất bản trên các tạp chí khoa học uy tín. Và nếu công trình của họ được xuất bản thì họ sẽ được tiếp tục cấp tài trợ vào năm sau. Vì thế, xét về mặt hiệu quả liên quan đến xuất bản, giải pháp này là giải pháp mạnh nhất để đẩy các nghiên cứu lên những tạp chí lớn của thế giới.

Thứ ba, Việt Nam kiểm soát được định hướng của các nghiên cứu này thông qua việc đặt ra những tiêu chí của nguồn tài trợ và qua quá trình xét duyệt các đề án nghiên cứu. Vì thế, các sản phẩm nghiên cứu sẽ không “ngẫu nhiên” như việc tổ chức các hội thảo, mà sẽ có tính định hướng mạnh hơn rất nhiều.

Thứ tư, vì Việt Nam vẫn được coi là có cơ sở vững vàng hơn cả về mặt pháp lý và thực tế, lẫn sự hợp lý trong các yêu sách của mình về biển Đông, các học giả quốc tế cũng dễ chấp nhận tài trợ của Việt Nam hơn, ngay cả khi Trung Quốc cũng lập ra những quỹ tài trợ tương tự. Lý do cơ bản là ở danh tiếng: bảo vệ lẽ phải cho người ngay bao giờ cũng thú vị hơn là làm lính đánh thuê cho bạo chúa.

Thứ năm là các công trình của người nước ngoài viết về tranh chấp biển Đông, dù là người viết nhận tài trợ từ nguồn nào thì vẫn dễ được coi là khách quan hơn so với công trình của những tác giả trong các nước có tranh chấp viết.

Nếu Việt Nam thật sự muốn có nhiều nghiên cứu quốc tế chất lượng về tranh chấp biển Đông, được thực hiện nhanh chóng, có khả năng xuất bản cao trên các tạp chí quốc tế danh tiếng, bảo vệ lập trường của Việt Nam nhưng lại được nhìn nhận là khách quan hơn, thì việc lập ra các quỹ tài trợ cho nghiên cứu về biển Đông là việc rất nên làm. Việc này sẽ càng có hiệu quả nếu kèm theo đó là việc tổ chức lại một cách bài bản hệ thống tư liệu, bằng chứng chủ quyền của Việt Nam và mở cửa rộng rãi cho các học giả nước ngoài có thể tiếp cận.

_____________

(*): Outsourcing: sử dụng nguồn lực bên ngoài.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận