Phóng to |
Nhà lắp ghép trên đảo chìm - Ảnh: Phạm Văn Minh |
Nông dân xây Trường Sa
Làng Bình Gi nằm cách bờ biển chỉ vài kilômet. Ngoài trồng lúa, nghề phụ duy nhất của làng là xây dựng. Trai tráng trong làng cứ ăn tết xong là kéo nhau lên thành phố, ra các vùng khác làm thợ xây. Nhưng một điều lạ là trong tủ kính gia đình nào ở Bình Gi hầu như cũng có một vài vỏ sò, vỏ ốc, những nhành san hô nho nhỏ. Đến nhà ông Lê Văn Biền, một trong những thợ xây giỏi nhất làng Bình Gi, quý lắm ông mới mở tủ cho chúng tôi xem “đồ quý” của mình. Ông “bật mí”: “Vỏ ốc Trường Sa đấy! Đây là báu vật của đời tôi, mang về từ những năm đi làm ngoài đảo”.
Không riêng gì ông Biền, cả làng Bình Gi nhiều nhà cũng có những kỷ vật của Trường Sa. Có người tiếc rẻ: “Trước chúng tôi thấy cái vỏ sò to cả mét nhưng không đem về được”. Làng Bình Gi từng có tới hàng trăm người ra Trường Sa làm thợ. Không chỉ thợ xây, Bình Gi góp cả thợ sắt, thợ mạ, thợ mộc, công nhân phá đá... Người ít thì đi dăm ba tháng, người nhiều đi mấy năm trời, về quê một thời gian rồi đi tiếp. Hỏi chuyện ngày xưa, những người nông dân lam lũ da sạm màu nắng biển cứ vanh vách kể những địa danh: Trường Sa Lớn, Trường Sa Đông, Song Tử, Sinh Tồn, Đá Lớn...
Những câu hát về Trường Sa thi thoảng vẫn ngân lên đâu đó ở làng. Đây là làng duy nhất từng được huy động quy mô lớn thợ đi xây các đảo ở Trường Sa và nhiều người tròn tay nghề từ Trường Sa, đi làm thợ xong về cho con cháu gia nhập những công ty đang nổi tiếng xây đảo hiện nay. Vì vậy, làng Bình Gi được nhiều cán bộ hải quân gọi vui là “làng xây đảo”.
Câu chuyện cả làng đi xây đảo ở Trường Sa đến với những người thợ làng Bình Gi thật tình cờ. “Đó là một cơ duyên đặc biệt” - ông Đỗ Ngọc Kiên, nguyên đội trưởng đội mạ thép cho đoàn công binh T3, nói.
Hồi đó làng Bình Gi còn nghèo. Nhà ông Biền dăm bảy miệng ăn mà mỗi khẩu chưa được nổi một sào ruộng. Một ngày, cả làng xôn xao chuyện ông Hoàng Kiền, khi ấy là trung tá, chỉ huy trưởng một đơn vị công binh, về quê tuyển người ra Trường Sa. “Lúc đó, ông Kiền nói cần tuyển công nhân có tay nghề cao để tiếp tục việc tôn tạo và xây dựng Trường Sa. Bà con sẽ được trả lương cao gấp đôi ở đất liền, ăn uống không mất tiền. Cả hai bố con tôi xung phong ra Trường Sa xây đảo, vì mình, vì Tổ quốc” - ông Biền nói. Cả làng Bình Gi có rất nhiều người đăng ký nhưng đợt đầu ông Kiền chỉ tuyển chín người thợ giỏi nhất.
Những kỷ niệm không bao giờ quên
Bàn tay chai sạn, sần sùi, nước da màu đồng hun, ông Đoàn Văn Tự ở Bình Gi nổi tiếng ở “làng xây Trường Sa” với thâm niên hai “cuộc đời” gắn bó với đảo. “Thuở thanh niên, tôi nhập ngũ, làm chiến sĩ ở Đoàn M71 Hải quân. Sau xuất ngũ, số phận thế nào, thấy tuyển thợ đi Trường Sa, tôi xung phong và được luôn” - ông Tự kể. Dạn dày sóng gió nên ông Tự được đi làm ở khá nhiều đảo, mùa biển động về đất liền, ông cũng được giao làm tổ trưởng tổ sản xuất đá phục vụ xây đảo. Thời đó sức vóc trai trẻ, vác cả tạ lúa.
Ngày đó, cái ám ảnh nhất là thiếu nước và phải chiến đấu thường xuyên với nắng gió. “Thời đó chỉ có vài cây xanh, anh em căng bạt ra, cứ thấy nao nao chuẩn bị say nắng thì chạy vào nghỉ một chút, rồi lại ra làm” - ông Tự nói. Xây được một hàng gạch ở Trường Sa bằng xây cả bức tường ở đất liền, ông Lê Văn Biền hồi tưởng: “Vữa để xây ở đảo phải trộn bằng nước ngọt, nhiều lúc phải dành nước ăn để trộn. Đôi khi ximăng ở trong bao, nước biển không vào được nhưng khi anh em bê, mồ hôi quyện vào nhiều đến nỗi bị vón thành cục”.
Tuy nhiên, xây được rồi, đôi khi người thợ lại đứng... khóc vì mưa kéo đến, công sức cả ngày tự dưng biến mất.
“Những bờ tường mới xây che chỉ được một phần, phần còn lại mưa tróc hết vữa, có cơn dông mạnh thì giật đổ luôn tường - ông Biền kể - Anh em gặp cơn mưa ai cũng đứng giữa trời để được tắm thoải mái. Nhưng có đợt mưa to quá, vữa trôi hết, sợ không đủ vật liệu làm, anh em chiến sĩ, cán bộ chỉ huy và thợ cùng đứng ngây ra khóc. Tay anh nào cũng phải cầm bao nilông tranh thủ tích nước. Rồi tự nhiên tất cả cùng quăng ra, lao vào chống tường. Mãi đến khi thấy nguy hiểm, quân lệnh yêu cầu tất cả vào nhà, mọi người mới chịu vào. Mình nhiều lúc cũng cứ thấy mặn mặn ở môi khi những bức tường bị gió thổi bay”.
Sức mạnh của thiên nhiên khó nơi nào thể hiện thường xuyên và mạnh mẽ như ở Trường Sa. Đi xây đảo ở Nam Yết, ông Tự nhớ lại có lần đang đứng thì trời tối tăm mù mịt, ông cùng anh em chỉ kịp chạy vội vào công sự gần đó trú ẩn. Sóng nổi lên được một lát thì bỗng thấy cả một bồn đựng đầy 25.000 lít xăng bị cuốn bay mất. “Tôi không tưởng tượng nổi, nếu nghe ai nói thì chắc chắn bảo nói dóc, nhưng thiên nhiên ở đảo quả ghê gớm”.
Còn anh em ông Đỗ Văn Phông và Đỗ Văn Đoàn, vốn là hai thợ mộc giỏi nhất làng, lại nhớ những ngày làm “quên ăn quên ngủ, làm đi làm lại” vì Trường Sa. Ra đảo làm bàn, ghế, giường, tủ, cửa, ông Đoàn kể: “Chúng tôi làm cẩn thận lắm. Về báo cáo đinh sắt đáng đóng một cái, chúng tôi đóng 2, đảm bảo chắc 10-20 năm”.
Nào ngờ lãnh đạo trung đoàn 83 bắt... tháo ra đóng lại hết. Thời đó chưa có đinh inox nhưng quân lệnh yêu cầu đi đặt, thay 100% đinh, ốc, bản lề sắt thành inox. Ai cũng ngạc nhiên bảo “chơi sang” nhưng sau này mới thấy đúng là đinh sắt chỉ vài năm là cửa... rời ra hết.
Tình Tổ quốc
Ông Đỗ Văn Phông thì “lấy làm lạ” vì khả năng làm việc của mình thời đó. “Chúng tôi được tàu chở đi dọc các đảo Đá Đông, Đá Lát, Thuyền Chài, Tiên Nữ, Đá Lớn... Say sóng nôn mật xanh mật vàng, vậy mà toàn bộ giường, tủ, bàn ghế mỗi đảo chỉ làm trong hai ngày là xong”. Tàu đã lên lịch, cứ đúng giờ nhổ neo, hơn nữa, ông Phông kể nhà ở đảo không cửa như nhà không nóc, mưa là ướt từ đầu đến chân. Nhìn đôi mắt những người lính ở đảo, ông Phông bảo “chả thấy mệt nữa, vì so với họ thì mình... sướng quá”.
Với ông Đoàn Văn Tự, câu chuyện tiếp tục đi xây Trường Sa là chuyện được kể để giáo dục con cháu. Mỗi đảo xây xong, tấm bia đá chủ quyền được làm mới lại, khắc tên nước, kinh độ, vĩ độ.
“Có lần tôi chứng kiến cảnh một anh tên Thống, cán bộ đơn vị T3, đưa tấm bia chủ quyền để tiếp tục làm mới cho công trình. Xuồng vào gần bờ thì sóng to quá bị lật. Anh Thống không biết bơi, hô ầm lên. Anh em tới cứu. Sóng đánh cao cả mét, chỉ nắm được tóc Thống, thi thoảng nhấc lên cho thở. Thế mà khi vào đến đảo, Thống vẫn... ôm khư khư cái bia chủ quyền nặng cả chục ký. Anh em chiến sĩ ấy đã khiến chúng tôi cảm phục để làm tốt hơn công việc của mình. Cái tình Tổ quốc ở Trường Sa lớn lắm” - ông Biền nói.
________________________
Câu chuyện về người lính tên Thống ôm bia chủ quyền ngụp lặn trong sóng biển để bảo vệ bia chủ quyền dẫn chúng tôi đến với một sĩ quan khác cũng tên Thống, và câu chuyện đầy xúc động của ông cùng đồng đội khi đối diện những sự cố bất ngờ trên đảo Tiên Nữ...
Kỳ tới: Sống chết cùng Tiên Nữ
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận