Bốc hỏa, nhức đầu, mệt mỏi,… thường xảy ra ở tuổi mãn kinh. Ảnh: femina.hu
Mãn kinh (MK) là một giai đoạn sinh lý tự nhiên của người phụ nữ. Biểu hiện sự hết kinh vĩnh viễn sau khi buồng trứng ngưng tiết estrogen. Tuổi MK trung bình trong khoảng 45 – 52 tuổi. Nếu MK trước 40 tuổi gọi là MK sớm và nếu MK sau 55 tuổi gọi là MK muộn. Tuổi MK là tuổi chấm dứt hoàn toàn kinh nguyệt, xảy ra sau một khoảng thời gian từ 2 – 5 năm với những triệu chứng ban đầu kinh nguyệt bị rối loạn, giai đoạn này thời được gọi là tiền MK. Đây là giai đoạn đặc trưng của sự suy giảm hoặc thiếu progesterone. Những rối loạn xảy ra những năm sau MK gọi là hậu MK, là hậu quả của sự thiếu hụt estrogen.
Tuổi MK chỉ là một khái niệm hồi cứu, với tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 80 tuổi như hiện nay, người phụ nữ phải sống ít nhất 30 năm nữa trong tình trạng thiếu estrogen với những biểu hiện "bất ưng" của nó, vì lẽ đó, ngày nay người ta nói nhiều đến vấn đề sử dụng nội tiết tố nữ thay thế trong giai đoạn MK cũng như có chế độ dinh dưỡng, chế độ nghỉ ngơi và luyện tập thể dục thể thao hợp lý, nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống và bảo vệ người phụ nữ đối với một số bệnh lý mà do thiếu hụt nội tiết tố nữ gây ra.
Cần nắm rõ đặc điểm về MK, giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về nó, nhằm mang lại sức khỏe dồi dào hơn, cuộc sống có nhiều ý nghĩa hơn trong những năm tháng dài ở phía trước.
Thời kỳ tiền mãn kinh xảy ra như thế nào?
Người phụ nữ bước vào thời kỳ này có sự giảm đáp ứng của buồng trứng với các nội tiết tố hướng sinh dục, dẫn đến những rối loạn trong sự trưởng thành của noãn bào. Điều này sẽ đưa đến những chu kỳ không rụng trứng, hoặc rụng trứng khó khăn. Do đó, đầu tiên là lượng progesterone giảm, rồi đến lượt estrogen cũng giảm. Ngược lại các nội tiết tố hướng sinh dục FSH (Follicle Stimulating Hormone) và LH (Luteinizing Hormone) (hai nội tiết tố FSH và LH do tuyến yên tiết ra) lại tăng tiết vì cơ quan tiếp nhập của buồng trứng không đáp ứng do bị suy. Điều này dẫn đến cơ chế phản hồi ngược âm (negative feedback mechanism). Hậu quả đưa đến cường estrogen tương đối (estrogen bởi buồng trứng tiết ra) do sự rối loạn của tế bào hạt ở buồng trứng chế tiết dưới tác động FSH).
Trên thực tế biểu hiện chu kỳ kinh nguyệt ngắn lại hoặc thưa ra, khi có kinh thì dễ rong kinh, rong huyết hay cường kinh. Chất nhờn ở âm đạo trong lỏng suốt chu kỳ. Đi kèm các dấu hiệu tiền kinh như tăng cân, bụng tích tụ mỡ tăng, đau trằn bụng dưới, đau vú, thay đổi tâm tính như lo âu, căng thẳng, bất an, ngủ kém.
Việc đo lường nồng độ nội tiết trong thời kỳ tiền mãn kinh không có ý nghĩa, vì thời kỳ này tự cơ thể đã có sẵn một tình trạng nội tiết bất định. Tuy nhiên nếu có rối loạn kinh nguyệt, sẽ rất khó phân biệt với một xuất huyết âm đạo bất thường do nguyên nhân thực thể, hoặc đau vú mà lại có khối u ở vú thì cần có những thăm dò đặc biệt như nội soi và sinh thiết buồng tử cung hay chụp nhũ ảnh để loại trừ một nguyên nhân thực thể, nhất là nguyên nhân ác tính.
Cách điều trị tiền mãn kinh
Việc sử dụng thuốc nội tiết nhằm giảm các dấu hiệu "bất ưng" giúp cho người phụ nữ cải thiện được chất lượng sống. Thuốc nội tiết có thể dùng loại ngừa thai thế hệ mới, chỉ có 20µg ethinyl estrodiol và 1 mg desogestrel, sử dụng cho đến khi mãn kinh thực sự cho những phụ nữ không có các bệnh lý đi kèm như tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim cục bộ, rối loạn lipid máu, suy gan, suy thận, viêm tắc động tĩnh mạch và các bệnh lý máu.
Có thể dùng progesterone đơn thuần trong 10 ngày sau mỗi chu kỳ để gây hiện tượng ra kinh, áp dụng ở những phụ nữ có rối loạn kinh nguyệt.
Thời kỳ mãn kinh thật sự xảy ra như thế nào?
Xảy ra sau khi bặt kinh liên tiếp 12 tháng, riêng đối với phụ nữ đang điều trị bằng progesterone do rối loạn kinh nguyệt, nếu sau khi ngưng thuốc mà không gây được xuất huyết trong lòng tử cung để tạo ra kinh nguyệt, thì cũng có thể được xem là mãn kinh thật sự.
Ở thời kỳ này số lượng noãn bào ở buồng trứng giảm đáng kể, buồng trứng hoàn toàn không đáp ứng hay đáp ứng rất kém với những kích thích từ trục hạ đồi tuyến yên, dẫn đến hệ quả các nội tiết tố hướng sinh dục tăng cao, như FSH tăng gấp 10 lần, LH tăng gấp 3 lần, các nội tiết tố estrogen sản xuất từ buồng trứng giảm, còn estrogen được sản xuất từ mô tuyến thượng thận và chuyển hóa từ mô mỡ tăng. Do vậy estrogen chủ yếu trong thời kỳ mãn kinh, được sản xuất từ mô đệm buồng trứng, tuyến thượng thận, mô mỡ, mô cơ và mô gan. Vì vậy, không phải tất cả các phụ nữ khi mãn kinh đều thiếu estrogen.
Thụ thể estrogen có ở nhiều mô trong cơ thể, mỗi nơi có một độ nhạy khác nhau khi tiếp xúc estrogen. Vì vậy, estrogen giảm sau mãn kinh không đủ làm nội mạc tử cung phát triển dày lên, rồi bong ra để tạo ra kinh nguyệt hàng tháng, nhưng vẫn có thể đầy đủ ở các mô khác, do vậy không phải phụ nữ nào cũng có một biểu lộ sự thiếu estrogen như nhau.
Các biểu hiện triệu chứng lâm sàng ở thời kỳ MK thực sự
Dấu hiệu tắc kinh là dấu hiệu chính xảy ra sự MK, biểu hiện một cách êm đềm hay kèm theo những xáo trộn rõ, điều đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố như có sự giáo dục, trình độ văn hóa xã hội, khả năng nhạy cảm đáp ứng và mức độ chuyển hóa androgen thành estrone, trong thành phần của estrogen của từng phụ nữ. Các dấu xáo trộn đó là: Triệu chứng bốc hỏa, chóng mặt, nhức đầu, rối loạn tâm lý, mệt mỏi, tê các đầu ngón chân ngón tay và tăng cân. Cuối cùng là sự thiếu hụt estrogen ở tất cả mọi phụ nữ, dù có xáo trộn hay diễn tiến êm đềm.
Hậu quả trên hình thái của cơ thể người phụ nữ ở tuổi MK: Vóc dạng cơ thể nhỏ dần, lưng còng, ứ đọng mỡ ở nhiều nơi, thay đổi hệ thống lông, da mặt nhăn và mất tính đàn hồi, vú nhỏ lại, cơ quan sinh dục teo nhỏ, âm đạo khô khiến giao hợp đau, rối loạn đường tiểu với dạng viêm bàng quang không nhiễm trùng, gây tiểu gắt, tiểu nhiều lần hoặc đôi khi tiểu không tự chủ làm són tiểu.
Hậu quả trên hệ biến dưỡng: Lượng cholesterol và triglyceride trong máu đều tăng kéo theo tăng LDL-C (Low Density Lipoprotein Cholesterol) đó là loại cholesterol xấu, trong khi đó nồng độ HDL-C (High Density Lipoprotein Cholesterol) đó là loại cholesterol tốt, cũng tăng nhưng không đáng kể, do đó tỷ lệ HDL/LDL giảm, làm gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu não như xuất huyết não, nhũn não và tai biến mạch vành như nhồi máu cơ tim hay bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ. Đồng thời dễ bị bệnh đái tháo đường khi cơ địa có tăng huyết áp, mập phì.
Hậu quả trên hệ tim mạch: Trong giai đoạn hoạt động sinh dục, estrogen có tác dụng bảo vệ người phụ nữ đối với các bệnh mạch vành và mạch não, do đó ở độ tuổi này phụ nữ ít bị các bệnh lý về tim mạch hơn so với nam giới. Tuy nhiên, sau tuổi MK do suy giảm estrogen nên tỷ lệ bị bệnh mạch vành và mạch não ngang bằng với nam giới.
Ngoài ra sau tuổi MK, còn có nguy cơ thuyên tắc mạch máu tăng, nhất là khi có kèm yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, tăng huyết áp, mập phì. Trên hệ xương dễ bị loãng xương, dễ gãy xương do giảm estrogen làm cho sự tiêu xương tăng.
Điều trị nội tiết tố thay thế được dùng như thế nào?
Việc dùng nội tiết tố thay thế là loại estrogen tự nhiên có thể duy trì hoặc cải thiện được chức năng của cơ quan trong cơ thể, làm sao cho gần giống sinh lý ban đầu, đặc biệt cần chú ý sự nhạy cảm với estrogen và hậu quả bất lợi ở tuổi MK là vú và nội mạc tử cung. Bên cạnh đó dùng nội tiết tố thay thế cũng có tác dụng ngoài ý muốn như tăng cân, giữ nước, đau vú, buồn nôn, xuất huyết âm đạo bất thường.
Nội tiết tố thay thế tuyệt đối không dùng cho những người có các bệnh lý suy gan nặng, thuyên tắc mạch, ung thư vú, ung thư nội mạc tử cung, tăng huyết áp, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung và đái tháo đường. Thuốc sử dung nội tiết thay thế như Progynova, Tibolone.
Tóm lại, đặc điểm sinh học của tiền MK là một tình trạng cường estrogen tương đối, nghĩa là không phải do estrogen tăng mà là do thiếu hoặc không có progesterone để giảm bớt tác dụng của estrogen. Sinh học của MK thực sự là do thiếu estrogen gây nên biểu hiện của tuổi già. Sự thiếu hụt estrogen trong giai đoạn MK có thể bù đắp bằng điều trị nội tiết thay thế.
Khuynh hướng hiện nay là dùng nội tiết thay thế liều thấp và ngắn ngày. Khi dùng đòi hỏi phải có sự hiểu biết, thận trọng và có sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ phụ khoa, với mục đích giúp phụ nữ cảm thấy thoải mái, dễ chịu, sức khỏe tốt, để có thể tiếp tục các hoạt động xã hội cho đến những năm cuối cùng của cuộc đời.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận