Công trình thủy lợi tại Bến Tre gấp rút thi công để trữ nước ngọt cho sản xuất - Ảnh: M.TRƯỜNG
Xung quanh vấn đề thiếu nước trên sông Mekong, thạc sĩ đã có những quan ngại về tình hình xâm nhập mặn ở đây, vì vậy cần sớm có giải pháp phù hợp.
Ông Thiện nói: "Tôi theo dõi mực nước tại một số trạm phía thượng nguồn như Chiang Sean (biên giới Lào - Trung Quốc), Pakse (nam Lào)..., thấy vẫn thấp hơn so với mực nước của năm khô hạn 1992. Như vậy, mực nước phía thượng nguồn đến giờ này vẫn chưa có gì khả quan hứa hẹn nước sẽ về nhiều trong mùa này".
Thiếu nước do mưa ít
* Theo ông, tình trạng thiếu nước bất thường là do thiên tai hay "nhân tai", có liên quan đến các đập thủy điện?
- Với một năm trung bình, sông Mekong có tổng lượng nước là 475 tỉ m3, trong đó lượng mưa tại chỗ ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm 11%. Do đó, mực nước ở Đồng bằng sông Cửu Long phụ thuộc lớn vào lượng nước từ phía trên chảy về. Nước ở lưu vực Mekong ít thì nước ở Đồng bằng sông Cửu Long ít, kéo theo đỉnh lũ thấp vào khoảng giữa tháng 10 ở Đồng bằng sông Cửu Long và xâm nhập mặn sâu vào khoảng tháng 3 dương lịch.
Phần thượng lưu vực sông Mekong chảy trong lãnh thổ Trung Quốc, với nguồn nước chủ yếu là từ tuyết tan ở cao nguyên Tây Tạng, đóng góp khá ít vào tổng lượng nước, chỉ chiếm 16%; Myanmar đóng góp 2%; còn lại 82% lượng nước Mekong là do mưa ở Lào, Thái Lan, Campuchia và ở tại chỗ Đồng bằng sông Cửu Long.
Do đó, có thể nói lượng mưa ở phần hạ lưu vực - tức là tính từ Lào xuống Thái Lan, Campuchia và tại chỗ ở Đồng bằng sông Cửu Long, là yếu tố quyết định lớn nhất đối với mực nước Đồng bằng sông Cửu Long.
* Cụ thể như thế nào, thưa ông?
- Trong 82% đó, lượng mưa ở phía tả ngạn, tức phía Lào, đóng góp đến 35% tổng lượng nước. Phần lưu vực từ Thái Lan và Campuchia phía hữu ngạn đóng góp 18% mỗi nơi.
Theo bản tin dự báo của Cơ quan Khí quyển và đại dương quốc gia Hoa Kỳ ra ngày 15-7-2019, hiện có tình trạng El Nino yếu và sẽ chuyển sang trạng thái ENSO trung tính trong một đến hai tháng tới, nên khả năng lượng mưa trong lưu vực Mekong sẽ thấp. Do đó, nguyên nhân số 1 của mực nước thấp hiện nay là do lượng mưa ít từ đầu năm đến nay.
Như vậy, thủy điện là nguyên nhân thứ hai làm cho tình trạng thiếu nước tồi tệ thêm. Tác động chính của thủy điện là làm giảm phù sa và cát, gây ra sạt lở nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long và những hệ lụy khác.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện
* Với tình hình như vậy, những kịch bản nào có thể xảy ra với vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới?
- Nếu tình hình này tiếp diễn sẽ có những ảnh hưởng tới vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Trước mắt, rất có khả năng mùa nước nổi năm nay không về, bà con nuôi thủy sản mùa lũ sẽ gặp khó. Trước hết là nguồn thủy sản tự nhiên sẽ giảm, bất lợi cho người dân đánh bắt. Sau một năm khô hạn, năm sau dù có lũ trở lại cá vẫn ít vì chưa kịp phục hồi.
Ngoài ra, các làng nghề làm ngư cụ đánh bắt thủy sản cũng sẽ gặp khó, nhiều người đã phải bỏ làng lên thành phố tìm việc làm.
Đáng lo nhất là sau tết, nếu mưa ít vẫn kéo dài thì tình trạng hạn hán xâm nhập mặn sẽ rất gay gắt, ảnh hưởng đến cả nguồn nước sinh hoạt ở những nơi chưa từng bị ảnh hưởng.
Chưa kể khi dòng sông Mekong yếu, lượng bùn cát đổ về ít, đồng bằng càng thiếu hụt phù sa, trong khi sạt lở gia tăng ở những năm sau.
Cần cảnh báo sớm
* Ông khuyến cáo gì nhằm ứng phó với tình hình phức tạp này?
- Trước mắt, chính quyền địa phương cần cảnh báo khả năng nước lũ không lên để bà con nuôi thủy sản lường trước. Sau tết, nên thông báo sớm để bà con sống ở ven biển biết trước rủi ro. Đối với những năm khô hạn cực đoan, xâm nhập mặn sâu, càng cần cảnh báo sớm để tránh thiệt hại, không nên đương đầu.
Kinh nghiệm năm 2016 cho thấy ít có biện pháp nào hiệu quả để đối phó với khô hạn cực đoan. Dù có cống đập ngăn mặn cũng không có tác dụng vì những vùng mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long sẵn sàng cho các kịch bản thiếu nướcnhư ở bán đảo Cà Mau, mặn là từ trong đất ra.
Trong quá trình bồi đắp vùng này, phù sa sông Cửu Long mang ra biển rồi vòng đường biển vào bồi đắp bán đảo Cà Mau, nên đất ở đây mặn.
Vùng này có 6 tháng ngọt là nhờ lớp nước mưa ở trên đè xuống. Trong những năm khô hạn, mưa ít, dù có đóng cống ngăn mặn thì bên trong vẫn mặn. Riêng với nước sinh hoạt, ngành chức năng cần thông báo sớm cho người dân trữ nước.
Các con kênh ở đầu nguồn huyện An Phú (An Giang) cạn kiệt nguồn nước, báo hiệu mùa lũ cạn - Ảnh: BỬU ĐẤU
* Như vậy không thể chủ quan trước thực tế mực nước trên sông Mekong ở thượng nguồn cạn khô...
- Chuyện xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long lại còn do một yếu tố nội tại ở Đồng bằng sông Cửu Long, đó là phần lớn diện tích đều có đê bao khép kín không cho lũ vào.
Nước về chủ yếu chảy trong sông Tiền, sông Hậu và một số nhánh sông lớn rồi chảy ra biển chứ không vào được ruộng vườn. Đến mùa khô, khi nước sông Mekong hạ thấp thì đồng bằng cũng chẳng còn nước.
Vấn đề bắt đầu gần 20 năm trước, từ khi lúa vụ ba phát triển mạnh ở các tỉnh thượng nguồn làm tăng ngập vườn tược ở các tỉnh phía dưới. Các tỉnh bên dưới do đó cũng làm đê bao để bảo vệ vườn cây ăn trái, càng làm càng tăng ngập ở những nơi chưa có đê bao, dần dần khắp nơi đều có đê bao khép kín.
Khi mùa lũ trùng với triều cường từ biển vào, các thành phố và lộ giao thông ở vùng giữa đồng bằng, từ quốc lộ 1 trở ra biển, bị ngập nặng vì những nơi này không có đê bao. Đến mùa khô, toàn đồng bằng thiếu nước do nước đã bị tống ra biển hết vào mùa nước.
* Vậy theo ông, đâu là giải pháp lâu dài, bền vững cho Đồng bằng sông Cửu Long?
- Về lâu dài, để tăng cường sức chống chịu của Đồng bằng sông Cửu Long, cần khôi phục không gian của dòng sông, để nước có thể vào lại ruộng đồng, bắt đầu bằng việc giảm bớt một vụ lúa trong mùa lũ ở Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
Khi lũ vào được hai vùng này, vùng phía dưới sẽ bớt ngập, không còn đê bao khép kín, nước có thể vào vườn, như vậy sang mùa khô đồng bằng sẽ bớt khô hạn và xâm nhập mặn sâu.
Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu đã chỉ rõ sản lượng lúa không còn là ưu tiên mà chất lượng mới quan trọng. Còn vùng ven biển nên chuyển sang hệ canh tác mặn, không nên cố ngọt hóa để canh tác lúa khắp nơi nữa.
Các địa phương ứng phó ra sao?
Bến Tre: toàn dân trữ nước
Ông Nguyễn Hữu Lập - phó chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre - cho biết: "Ngay từ bây giờ, chúng tôi đã yêu cầu các huyện và các sở ngành tranh thủ những đợt mưa cuối mùa để trữ nước mưa cho sinh hoạt, để dành xài những tháng mùa khô. Nói chung đợt này là một cuộc vận động toàn dân trữ nước để tránh lặp lại trường hợp như đợt hạn năm 2016".
Sóc Trăng: nạo vét kênh để trữ nước
Ông Lương Minh Quyết, giám đốc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng, cho biết tỉnh đã chủ động nạo vét toàn bộ hệ thống kênh mương nhằm trữ nước, phục vụ sản xuất lúa hè thu muộn và rau màu của bà con. Ngoài ra, Sóc Trăng cũng đề nghị trung ương hỗ trợ kinh phí cho địa phương đẩy nhanh tiến độ kiên cố hóa hệ thống đê bao ven biển, ven sông.
An Giang: chuyển trồng lúa sang cây trồng cạn
An Giang đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng lúa sang cây trồng cạn được 17.000/30.000 ha theo kế hoạch đến năm 2020. Trong đó có sử dụng một số giống lúa có khả năng chịu hạn tốt.
Tỉnh đã phối hợp với tỉnh Kiên Giang để bố trí lịch thời vụ xuống giống luân phiên ở các phân vùng, vận hành hệ thống thủy lợi trong vùng Tứ giác Long Xuyên, đặc biệt các cống ngăn mặn trữ ngọt ở vùng ven biển theo phương châm "4 tại chỗ" để kịp thời ứng phó khi có hạn, mặn xảy ra.
M.TRƯỜNG - K.TÂM - B.ĐẤU
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận