27/09/2017 10:40 GMT+7

Diện tích rừng ngập mặn ở ĐBSCL đã giảm 80%

XUÂN LONG
XUÂN LONG

TTO - ĐBSCL đang chịu ba nhóm thách thức lớn trong đó diện tích rừng ngập mặn đã giảm đến 80% trong 50 năm qua trong khi vụ mùa tăng thêm khiến cho đất không có thời gian nghỉ ngơi, phục hồi.

Diện tích rừng ngập mặn ở ĐBSCL đã giảm 80% - Ảnh 1.

Bộ trưởng Bộ TN-MT cho biết diện tích đất rừng ngập mặn trong 50 năm qua đã giảm 80%. Ảnh: XUÂN LONG

Sáng 27-9, Bộ trưởng bộ Tài nguyên - Môi trường Trần Hồng Hà đã báo cáo như trên tại phiên họp toàn thể phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.

ĐBSCL đang chịu 3 nhóm thách thức lớn

Báo cáo kết quả thảo luận sau phiên họp chuyên đề ngày 26-9, bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường Trần Hồng Hà cho biết hội nghị đã thống nhất khu vực ĐBSCL đang chịu 3 nhóm thách thức lớn.

Thứ nhất: nhóm thách thức từ nội tại, trong đó diện tích đất rừng bị suy giảm trong đó diện tích đất rừng ngập mặn trong 50 năm qua đã giảm 80%. Việc gia tăng thời vụ và sản xuất nông nghiệp quá sức phục hồi của đất.

Quy hoạch, đầu tư phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên kết trong khi ĐBSCL là một thể thống nhất, có gắn kết chặt chẽ với vùng TP.HCM và tiểu vùng Mekong.

Khai thác quá mức nước ngầm làm mặt đất sụt lún cùng với nước biển dân làm tăng nguy cơ ngập lụt. Phát triển, bố trí các khu dân cư chưa hợp lý cùng với khai thác bùn, cát và thiếu hụt lượng phù sa, bùn cát bổ sung dẫn đến sạt lở.

Hệ sinh thái mất cân bằng, môi trường ô nhiễm, đa dạng sinh học suy giảm. Quản lý nhà nước thừa chồng chéo nhưng thiếu phối hợp. Thiếu các cơ chế và quy hoạch tiếp cận theo vùng.

Thứ hai, nhóm thách thức mang tính khu vực. Đó là nhu cầu khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn gia tăng mạnh, làm giảm dòng chảy mùa kiệt, giảm lượng phù sa.

Lũ nhỏ cùng với triều cường nước biển dâng làm xâm nhập mặn sâu hơn vào nội vùng.

Suy giảm nguồn lợi thuỷ sản, tác động tiêu cực đến thuỷ sinh và đa dạng sinh học của vùng.

Thứ ba, nhóm thách thức mang tính toàn cầu do biến đổi khí hậu. Đó là tác động nước biển dâng, hạn hán gia tăng về trong khi khả năng chống chịu của đồng bằng còn thấp.

Tác động rủi ro do thiên tai, các hiện tượng khí hậu cực đoan (mưa, bão, giông tố, lốc xoáy...) ngày càng khó lường.

Diện tích rừng ngập mặn ở ĐBSCL đã giảm 80% - Ảnh 2.

Cuộc sống ở đồng bằng miền nam còn chịu nhiều ảnh hưởng từ thiên tai

Kiến nghị 9 nhiệm vụ và giải pháp chiến lược

Từ những nhóm thách thức kể trên và kết quả hội nghị chuyên đề, Bộ trưởng Trần Hồng Hà kiến nghị 9 nhiệm vụ, giải pháp chiến lược cho ĐBSCL

Thứ nhất, rà soát và hoàn thiện đồng bộ, chính sách, chiến lược, quy hoạch theo hướng thống nhất với đề xuất quy hoạch phân vùng theo 3 vùng sinh thái cùng với các dự án ưu tiên "không hối tiếc" cho 3 vùng như đề xuất trong kế hoạch ĐBSCL.

Xây dựng quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực của ĐBSCL, xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội vùng và các quy hoạch ngành, lĩnh vực. Xây dựng mô hình kinh tế phù hợp với tự nhiên, chủ động sống chung với mặn, hạn như từng sống chung với lũ, tạo chuỗi giá trị khép kín, chủ động từ khâu sản xuất giống, bảo quản chế biến và phân phối. 

Thay đổi tư duy về an ninh lương thực, tập trung sản xuất lúa gạo.

Thứ hai, đánh giá đầy đủ các tác động đến xã hội, sinh kế người dân, chuẩn bị tốt các điều kiện trong quá trình chuyển đổi.

Hỗ trợ chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực để người dân tham gia một cách tích cực, chủ động, với vai trò là trung tâm của quá trình chuyển đổi.

Quan tâm đầu tư hệ thống y tế, giáo dục để sự ổn định và sinh kế của người dân, coi đây là yêu cầu đảm bảo tính bền vững của quá trình chuyển đổi.

Thứ ba, đẩy mạnh bảo vệ môi trường, hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm phát thải khí nhà kính.

Quy hoạch và đầu tư các khu xử lý chất thải, nước thải tập trung, hiện đại; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và sản xuất năng lượng từ rác.

Rà soát lại quy hoạch phát triển điện lực 2011 - 2021, xem xét chuyển đổi công nghệ đối với các nhà máy nhiệt điện than; phát triển năng lượng tái tạo; chuyển đổi công nghệ để tiết kiêm năng lượng.

Xây dựng ngành nông nghiệp hữu cơ, phát thải carbon thấp.

Thứ tư, cơ chế huy động nguồn lực cho quá trình chuyển đổi: khuyến khích sự tham gia đầu tư của các doanh nghiệp, người dân vào phát triển hạ tầng, kết hợp phát triển du lịch, ưu tiên nguồn vốn cho các công trình có tính kết nối liên vùng, liên tỉnh, xem xét, thành lập quỹ phát triển ĐBSCL để đa dạng hoá nguồn lực cho bảo đảm an ninh tài nguyên nước.

Thứ năm, nghiên cứu khoa học công nghệ: nghiên cứu xây dựng đề án với tầm nhìn dài hạn giảm nhẹ các tổn thương tác động từ phía biển, kết hợp đồng bộ giữa giao thông, thủy lợi, các kết cấu hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu, đề xuất các giải pháp công trình cứng (xây đê bao…) và các giải pháp mềm (trồng rừng ngập mặn…).

Triển khai chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ, trong đó tập trung nghiên cứu, đánh giá, nhận diện và lượng giá đầy đủ tài nguyên thiên nhiên của ĐBSCL.

Xây dựng các giải pháp khoa học, kỹ thuật phục vụ phát triển bền vững ĐBSCL.

Thứ sáu, tăng cường năng lực quan trắc, giám sát, cảnh báo, dự báo và hoàn thiện, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu tích hợp về ĐBSCL.

Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế: đặc biệt với Cao ủy Đồng bằng Hà Lan, đồng thời đàm phán, kêu gọi sự hợp tác của các quốc gia và các tổ chức quốc tế, các nước trong tiểu vùng sông Mekong.

Thứ tám, hoàn thiện cơ chế điều phối phát triển vùng, nghiên cứu cơ chế điều phối vùng hiệu quả huy động được sự tham gia của đại diện các Bộ, ngành và địa phương trong vùng, một số nhà khoa học để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ về các quyết sách về phát triển bền vững vùng ĐBSCL.

Thứ chín, tăng cường công tác truyền thông để tăng cường nhận thức cho người dân vùng ĐBSCL về những cơ hội từ quá trình chuyển đổi mô hình nhằm phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

XUÂN LONG
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên