Tôi xin được tư vấn về thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân để thực hiện giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật (cụ thể là xác nhận 2 thời kỳ độc thân để bán đất).
Tôi sinh năm 1991. Giới tính: Nam. Truớc giờ tôi chỉ có hộ khẩu thường trú tại một nơi duy nhất. Ngày 20-10-2019, tôi đăng ký kết hôn lần một tại UBND phường nơi đăng ký hộ khẩu. Ngày 8-9-2020, tôi có quyết định công nhận thuận tình ly hôn của tòa án.
Ngày 8-12-2022, tôi đăng ký kết hôn lần hai tại UBND phường nơi đăng ký hộ khẩu. Tôi có lưu trữ đầy đủ trích lục kết hôn lần một và quyết định ly hôn, trích lục kết hôn lần hai.
Tuy nhiên khi xin xác nhận tình trạng hôn nhân cho lần độc thân đầu tiên (từ đủ 20 tuổi đến trước lần đăng ký kết hôn lần một), tôi được trả lời: "Theo điểm 6, khoản 1, điều 33, thông tư 04/2020/TT-BTP, tôi chỉ xác nhận độc thân được cho anh giai đoạn từ khi anh ly hôn đến trước khi anh đăng ký kết hôn lần hai, còn lần độc thân đầu tiên của anh không có căn cứ pháp lý".
Xin hỏi luật sư yêu cầu xác nhận độc thân từ khi tôi đủ 20 tuổi đến trước khi kết hôn lần đầu có cơ sở pháp lý để xác nhận không?
Luật sư Nguyễn Hồng Lĩnh trả lời:
Theo quy định tại điều 21 nghị định 123/2015, thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hiện nay đang thuộc về "UBND cấp xã nơi thường trú của công dân Việt Nam".
Điều 22 nghị định 123/2015 quy định "Khi thực hiện thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân, người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp tờ khai theo mẫu quy định".
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân không những dùng để đăng ký kết hôn mà có thể sử dụng vào mục đích khác như tham gia giao dịch dân sự: mua bán, tặng cho tài sản hay để lại thừa kế…
Theo tôi, việc cơ quan hộ tịch từ chối cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của bạn là không đúng với quy định pháp luật.
Bởi lẽ, trước khi đăng ký kết hôn lần một thì bắt buộc bạn phải thực hiện thủ tục xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và khi được cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thể hiện bạn đang độc thân thì cơ quan hộ tịch mới tiến hành đăng ký kết hôn cho bạn.
Theo quy định tại khoản 6, điều 22 nghị định 123/2015: "Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để sử dụng vào mục đích khác hoặc do giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết thời hạn sử dụng theo quy định tại điều 23 của nghị định này thì phải nộp lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó".
Do đó, bạn có quyền yêu cầu cấp lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trước thời điểm bạn đăng ký kết hôn lần một và khi yêu cầu cấp lại, bạn cần nộp lại giấy xác nhận đăng ký kết hôn được cấp trước đó.
Trường hợp bạn không nộp lại được giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đây, bạn phải trình bày rõ lý do không nộp lại được giấy này.
Hơn nữa, khi bạn ghi giấy xác nhận tình trạng hôn nhân tại mục "Tình trạng hôn nhân" bạn phải ghi đúng theo quy định tại khoản 1, điều 33 thông tư 04/2020/TT-BTP, phải ghi trung thực về tình trạng hôn nhân hiện tại của bạn, cụ thể như sau: "Tôi đang có vợ là bà… (Giấy chứng nhận kết hôn số…, do… cấp ngày… tháng… năm) yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân trong thời gian trước khi đăng ký kết hôn từ ngày… tháng… năm... đến ngày…tháng… năm…".
Trong trường hợp cơ quan hộ tịch vẫn từ chối yêu cầu của bạn, bạn có thể thực hiện quyền khiếu nại đến chủ tịch UBND cấp xã nơi bạn cư trú để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Mời bạn đọc gửi câu hỏi để được luật sư tư vấn
Với đội ngũ các luật sư và chuyên gia pháp lý dày dạn kinh nghiệm trên tất cả các lĩnh vực như hôn nhân - gia đình, kinh doanh - thương mại, mua bán đất đai, sở hữu trí tuệ, lao động, hộ tịch, thừa kế..., chuyên mục Tư vấn pháp luật trên Tuổi Trẻ Sao sẽ giải đáp thắc mắc của bạn một cách nhiệt tình, nhanh chóng, chính xác, hiệu quả.
Bạn đọc vui lòng gửi câu hỏi (gõ bằng tiếng Việt có dấu, font chữ UNICODE) về Tuổi Trẻ Sao qua địa chỉ [email protected].
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận