Sử sách thời xưa không ghi rõ về các hoạt động cụ thể của các vị vua trong ngày Tết ở các triều Lý, Trần. Như năm Mậu Ngọ, niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (1258) đời vua Trần Thái Tông, sau khi đánh đuổi xong quân Mông Cổ xâm lược đúng vào những ngày giáp Tết, đến mùng 1 Tết Nguyên đán, sử chỉ ghi vắn tắt: "Vua ngự chính điện, cho trăm quan vào chầu. Trăm họ yên nghiệp như cũ".
Ăn Tết thời nhà Lê
Chỉ đến thời Lê Thái Tông, chính sử có ghi lại việc đúng vào ngày mùng 1 Tết Nguyên đán năm Giáp Dần (1434), "vua dẫn các quan đến bái yết Thái miếu". Năm sau, vào ngày Tết năm Ất Mão (1435), vua Lê Thái Tông cho trăm quan được vui Tết "ban yến trong năm ngày cho các quan văn võ trong ngoài". Đến thời vua Lê Nhân Tông ngày mùng 3 Tết năm Bính Tý (1456), nhà vua cũng ban yến cho các quan, trong đó có cả tôn thất tham dự.
Chuyện "mừng tuổi" đầu năm cũng được "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi từ thời vua Lê Thái Tông, khi nhà vua "phát tiền cho các quan văn võ nhậm chức bên ngoài theo thứ bậc khác nhau". Việc ban tiền Tết cho quan viên thời Lê sơ, sau này sang thời Lê trung hưng vẫn được duy trì và đưa vào điển chế qua việc ban tiền thưởng xuân theo thứ bậc.
Thời Lê trung hưng, vua Lê chỉ còn ở ngôi làm vì, nhưng các chúa Trịnh vẫn giữ thế tôn phù. Dù chúa điều hành tất cả mọi việc trong nước, nhưng vua Lê vẫn thực hiện các nhiệm vụ nghi lễ như tế giao đầu năm, nên vào ngày mùng 1 Tết hằng năm, chúa Trịnh hoặc Thế tử (con trai cả của chúa) đều dẫn trăm quan mặc lễ phục vào chầu vua Lê, làm lễ chúc mừng năm mới. Sau đó nhà vua chỉ còn việc lo cỗ bàn hương khói ở các miếu thờ tổ tiên, còn lễ chính của ngày Tết diễn ra tưng bừng bên phủ chúa, từ việc duyệt binh, các quan lạy mừng, chúa ban thưởng tiền xuân cho quan tướng hoặc ban yến...
Tuy nhiên, đấy là thời bình, chứ thời chiến thì việc ăn Tết của vua cũng khác. Như năm Tân Mão, niên hiệu Hồng Đức năm thứ hai (1471), đời Lê Thánh Tông, nhà vua đem quân vào đánh Chiêm Thành, cuối tháng chạp dừng quân ở đất Thuận Hóa, nên cho quân ăn Tết ở đất này. Đến ngày mùng 2 Tết, cho là khi đại quân sắp vào đất giặc, quân lính càng cần phải luyện tập, nên nhà vua xuống chiếu cho quân Thuận Hóa ra biển tập thủy chiến.
Ăn Tết thời nhà Nguyễn
Năm vua Minh Mạng mới lên ngôi (1821), nhà vua từ Phú Xuân ra Thăng Long nhận lễ tuyên phong của nhà Thanh vào dịp cuối năm. Nghi lễ xong thì cũng sát Tết, vua cho xa giá quay ngay về kinh đô đón Tết. Khi về qua Thanh Hóa là quê cha đất tổ, nhà vua cũng chỉ kịp "Sai trấn thần Thanh Hoa sửa lễ tạ Nguyên miếu (tức miếu thờ chúa Nguyễn Hoàng, thủy tổ của các vua nhà Nguyễn)". Sử nhà Nguyễn ghi: "Khi hồi loan, đi gấp đường, đến tối ngày 30 Tết thì đã tới Tam Giang, tính ra mới có 11 ngày, thuyền theo hầu chỉ có mấy chiếc theo kịp".
Và sau chuyến hành trình gấp gáp này, đến đúng sáng mùng 1 Tết Nhâm Ngọ (1822), ngự giá về tới kinh sư. Đầu tiên, nhà vua yết điện Hoàng Nhân (nơi thờ vua cha Gia Long), sau đó yết cung Từ Thọ (cung của Thái hậu) mừng sức khỏe mẹ, rồi ngự ở điện Cần Chính để Hoàng trưởng tử và các đại thần lưu kinh là bọn Nguyễn Văn Nhân lạy để trả mệnh. Mùng 2 Tết, vua đem việc lễ bang giao đã xong cáo các miếu và điện Hoàng Nhân. Đến ngày mùng 3, vua đặt nghi thức tại triều ở điện Thái Hòa, xuống chiếu bố cáo trong ngoài.
Việc đặt lệ ngày mùng 1 Tết, vua đem bầy tôi đến cung Từ Thọ làm lễ mừng tuổi Hoàng Thái hậu bắt đầu từ năm Minh Mạng thứ năm (1824). Cũng dịp này, nhà vua tha thuế thân cho các tỉnh từ 1 phần đến 3 phần 10.
Cũng như triều Lê, sang triều Nguyễn, theo lệ từ năm Gia Long thứ sáu (1807), thì các lễ trừ tịch, Nguyên đán và lễ mùng 3 Tết, vua sẽ đến nhà Thái miếu làm lễ, có các quan văn võ từ ngũ phẩm trở lên bồi tế, do đó các quan phải chia nhau túc trực ở các miếu sẵn để chờ làm lễ. Đến mùng 1 Tết năm Mậu Thìn (1808), vua Gia Long bắt đầu thưởng bạc lạng cho các quan viên túc trực phục vụ các lễ này.
Về công việc hành chính thì những ngày cuối năm, triều đình làm lễ niêm phong ấn tín (gọi là lễ phất thức), đến ngày làm việc đầu năm mới làm lễ mở niêm phong. Tất nhiên nếu có việc cần kíp vẫn có ấn dự phòng, thậm chí có thể xin mở niêm phong để dùng ấn vàng. Có chuyện vui diễn ra vào năm Minh Mạng thứ 18 (1837), Nội các tâu rằng trong mấy ngày Tết, trừ các vệ sĩ phải ứng trực, còn hầu hết các quan đều được nghỉ, nên cũng xin cho các quan khoa đạo phụ trách việc đóng ấn vàng những lúc cần kíp cũng không phải ứng trực. Nhà vua đọc tờ tâu, phê vào rằng: "Không trực là không ngủ lại đêm mà thôi, chứ không phải là cả ngày không đến đâu, chớ lầm!".
Qua ghi chép trong "Đại Nam thực lục", ta được biết theo lệ từ thời vua Gia Long, vào hai dịp lễ lớn là Nguyên đán và Đoan dương (5-5 âm lịch), các ty giáo phường ở Thanh Hóa, Nghệ An phải vào kinh đô để tấu nhạc. Đến năm Gia Long thứ bảy (1808), nhà vua thương vì đường xa khó nhọc và phí tổn, nên miễn cho các ty giáo phường này không phải về kinh nữa.
Một điều nữa là từ đầu thời Nguyễn, có lệ tiến quả hằng năm vào kinh cho dịp Tết Nguyên đán cùng lễ miếu hưởng tháng 3 và 12 âm lịch. Mỗi lễ theo lệ Bắc Thành phải tiến 1.500 quả cam đường, sau giảm xuống 900 quả, đến năm 1825 lại giảm xuống 600 quả. Những sắc lệnh này thực sự đem lại niềm vui cho nhân dân các địa phương liên quan.
Nghi lễ trong ngày Chính đán (mùng 1 Tết) của nhà Nguyễn được ghi rõ trong sử sách, như năm Minh Mạng thứ nhất (1820), do vua Gia Long vừa qua đời, nên triều thần xin vua Minh Mạng vào ngày Chính đán sẽ thân yết Thái miếu, các quan bồi tế như nghi. Lễ xong, nhà vua ngự điện Cần Chính, đổi mặc áo thường, các quan vẫn mặc triều phục, đợi ở sân điện Thái Hòa, chờ quan bộ lễ tâu xin, vâng chỉ miễn triều phục, gọi vào triều kiến. Sau đó ngày thường nhà vua vẫn mặc áo trắng ngự ở tiện điện mà thính chính để trọn số tháng cư tang.
Sang năm Minh Mạng thứ hai (1821), vào ngày Chính đán, nhà vua mới đội mũ cửu long, mặc áo hoàng bào, đeo đai ngọc, tế Thái miếu, miễn lễ triều hạ cho các quan, sau đó đổi áo thường, ngự điện Cần Chính để các quan chiêm bái, rồi vua ban cho bạc thay yến theo thứ bậc khác nhau.
Ban niềm vui cho người dân sống thọ
Ngày Tết, nhà vua cùng ban niềm vui cho những người dân sống thọ. Tết năm 1828, nhà vua lệnh ban cho quân dân những người 80 tuổi trở lên mỗi người 1 tấm vải, 1 phương gạo; người 90 tuổi trở lên mỗi người 1 tấm lụa, 2 phương gạo; 100 tuổi trở lên mỗi người 2 tấm lụa 1 tấm vải và 3 phương gạo.
Vua Minh Mạng cũng có những mệnh lệnh đem lại niềm vui cho binh lính vào dịp Tết. Cuối năm 1827, trấn Bình Định lại tâu xin cho những binh lính đổi ban cứ tháng chạp này đến kinh thì mùa thu sang năm về quê, định làm lệ thường, nhưng vua không cho. Bộ binh xin đổi lấy ngày mùng 1 tháng giêng năm sau bắt đầu. Nghe vậy, nhà vua nói: "Ghét nhọc muốn nghỉ là thường tình người ta. Binh lính suốt năm khó nhọc, đến cuối năm việc ít mới được nghỉ ngơi, thế mà lại bắt ra đi làm việc từ ngày mùng 1 Tết, lối làm chính trị lại như thế à? Từ nay biền binh tới ban nên lấy ngày mùng 7 tháng giêng bắt đầu".
Mùa đông năm 1827, viên Thượng thư Binh bộ hưu trí là Nguyễn Đăng Hựu đã ngoài 80 tuổi vào kinh, vua triệu vào ra mắt, cho ngồi hỏi han, ban cho bài thơ ngự chế và quần áo chăn đệm cùng 100 quan tiền và thăng thưởng hàm Hiệp biện Đại học sĩ. Đăng Hựu muốn lưu đến Tết Nguyên đán để chầu mừng, nhưng nhà vua dụ rằng: "Ngươi tuổi già nua, ở lâu nhà trọ không phải ý ta ưu đãi người lão thần như thế. Vả nghe ngươi còn con bé, nên về mà dạy bảo nó. Trẫm sẽ lượng bổ để khuyến khích người trung thần". Sau đó vua sai lính đưa ông về làng (Đăng Hựu người phủ Hòa Đa, nay là huyện Bắc Bình, Bình Thuận) và ban thêm cho ông 200 quan tiền.
Vua Thiệu Trị làm thơ kỷ niệm ngày vui Tết Nguyên đán
Niềm vui của vua Thiệu Trị trong ngày Tết được thể hiện chi tiết trong câu chuyện diễn ra năm Thiệu Trị thứ năm (1845). Vào sáng mùng 1 Tết năm Ất Tỵ đó, vua đem các quan đến chầu cung Từ Thọ chúc thọ Hoàng Thái hậu. Làm lễ xong, vua ngự điện Thái Hòa nhận lễ mừng, cho các quan ăn yến có thứ bậc. Sau đó vua ngự điện Đông Các, triệu đình thần vào hầu, cho ngồi, ban cho nước trà, đưa cho xem bốn chữ "Trung, Cần, Phúc, Thọ" do vua viết, rồi hạ lệnh giao khắc in để ban cấp.
Nhân đó nhà vua sai Thượng thư bộ lễ Nguyễn Trung Mậu đọc bài thơ vua làm kỷ niệm ngày vui Tết Nguyên đán, trong đó có câu: "Lộ bất thập di, y thực túc; Gia vô bế hộ quản huyền doanh". Nghĩa là: Người dân ai nấy đủ ăn đủ mặc, đi đường không nhặt của rơi. Nhà nào cũng vang tiếng đàn sáo, cổng ngõ đêm đến không phải đóng.
Rồi vua bảo bề tôi rằng: "Nay, trong ngoài yên ổn, gần đây kinh kỳ và ngoài kinh kỳ, văn phong rất thịnh, con em các nhà không ai là không đi học, tiếng đàn tiếng hát khắp cả thôn quê, thực là văn chất đầy đủ, văn học ngày càng tiến".
Ngày Tết xưa có treo cờ không?
Theo quy định năm Minh Mạng thứ năm (1824) thì có, vì có lời vua dụ rằng: "Trong thành của các thành dinh trấn đạo phủ huyện cùng trong các đài Trấn Hải, Điện Hải, Định Hải đều dựng cùng đài cờ và cột cờ ở phía nam thành hay đài và chế cờ vàng, phàm gặp những ngày khánh đản, nguyên đán và rằm mùng 1 thì treo lên để tỏ lễ nghi pháp độ, sai bộ công bàn và gửi kiểu mẫu để thi hành".
Nghi thức treo cờ là vào các ngày chính tiết Thánh Thọ (sinh nhật Hoàng thái hậu), ngày chính tiết Vạn Thọ (sinh nhật vua) và trước đó một ngày, cùng với ngày dựng nêu, ba ngày Tết Nguyên đán, ngày Tết Đoan dương, ngày rằm mùng 1, trời tạnh thì treo cờ bằng trừu một lát, rồi thay cờ vải, tất cả đều màu vàng.
Cho phạm nhân về ăn Tết
Ở thời nhà Nguyễn, vào dịp Tết, những tù phạm mắc tội nhẹ được hưởng niềm vui lớn là cho về nhà ăn Tết, sau đó quay lại chịu án tiếp. Như thời vua Minh Mạng, viên cai đội thủy quân Nguyễn Tài Năng phải tội bị giam, đến Tết Nguyên đán được thả cho về thăm nhà, sau Tết quay lại nhà ngục, được vua thương tình, đặc cách sai tha, nhưng cho về lại thủy quân để lập công chuộc tội. Sau đó Tài Năng được khởi phục làm vệ úy vệ hậu thủy thủy quân, rồi thăng đến thống chế thủy quân.
Vua Tự Đức cũng thực hiện điều ân đức này vào ngày Tết. Năm 1846, trước đêm trừ tịch, nhà vua dụ bộ hình rằng: "Đương buổi xuân hòa, cỏ cây và các loài vật đều nhờ đó nảy nở. Huống chi, năm mới tiến phúc, trẫm tuổi tới tứ tuần, làm tiệc mừng ban ơn, thực nên khiến cho người ta biết tự sửa đổi. Các tù phạm bị đày ở trong quân, bị tội đồ làm nô, bị tội khổ sai, hiện đang phải giam ở kinh là 115 người, nên hội đồng các quan ở kinh, hiểu thị rõ ràng, tha cho về thăm nhà, hạn cho 15 ngày lại phải đến".
Khi đến kỳ hạn, không ai phải thúc giục, tất cả tù phạm đều trở lại điểm danh. Vua cho rằng bọn chúng đều biết cảm kích phấn khởi, nên tha cho cả. Những phạm nhân chưa trả xong số tiền phải bồi thường, cũng được rộng tha.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận