Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 trò chuyện cùng người dân trên địa bàn đơn vị đóng quân - Ảnh: ĐAN PHƯỢNG |
Nhiệm vụ của chúng tôi là trò chuyện cùng đồng bào dân tộc thiểu số gìn giữ an toàn xã hội và thực hiện nếp sống vệ sinh, khoa học.
Đội có bảy thành viên, chia thành hai tổ. Những ngày đầu, sau mỗi lần xuống địa bàn về, các thành viên đều lắc đầu thở dài. Tuấn - tổ trưởng tổ 1 - đăm chiêu: “Khó quá đội trưởng ạ. Mình nói đồng bào không nghe được, đến đâu bọn em cũng chỉ nhận được một nụ cười gượng và câu cửa miệng “I-cờ-bất” (tiếng Ba Na nghĩa là “không biết”).
Anh khác thì cho biết nhiều bà con né tránh, không muốn tiếp xúc với bộ đội. “Thế này thì còn “dân vận, dân vẻo” gì nữa đội trưởng” - một thành viên nói.
“Không bao giờ có chuyện nhân dân xa lánh bộ đội, vấn đề là chúng ta chưa tìm ra được chìa khóa để mở tấm lòng họ mà thôi”. Động viên anh em mà đêm về cứ trằn trọc, không sao chợp mắt, văng vẳng bên tai lời thủ trưởng:
“Các đồng chí là những cán bộ, chiến sĩ ưu tú, được lựa chọn để thực hiện nhiệm vụ đội quân công tác. Tôi tin tưởng các đồng chí sẽ khắc phục được mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Có lệnh là đi, có địch là đánh, đã đánh là thắng”.
Trăng thượng tuần lên cao, hòa quyện với sương đêm núi rừng Tây nguyên thành một dải lụa trắng khổng lồ, hiền hòa. Tiếng đàn T'rưng dìu dặt đưa tôi đến nhà rông lúc nào không hay. Tôi đem chuyện của đội dân vận tâm sự với già làng Đinh Yêng.
Vuốt chòm râu bạc phơ, hai mắt già sáng lên và cười nói: “Già hiểu rồi! Đồng bào mình như con nai, con hoẵng trên rừng quanh năm lên rẫy, nó chưa quen tiếp xúc với người Kinh mà. Bộ đội muốn nói cho đồng bào nghe thì phải nói bằng tiếng đồng bào cơ. Tiếng Kinh bọn mình không thạo, nói chuyện mắc cỡ lắm”.
Ngay hôm sau, khi đã trao đổi kỹ và thống nhất với già làng, thôn trưởng, lớp học cấp tốc tiếng Ba Na cho anh em trong đội dân vận được mở. Mà những giáo viên ban đầu không ai khác, chính là già làng và thôn trưởng làng Jơ Ri.
“Tiếng lành đồn xa”, khi cái tin bộ đội học tiếng Ba Na đi khắp làng thì bà con cứ thế kéo đến chật ních chỗ chúng tôi đang ở. Phần vì tò mò, phần vì thấy “bộ đội Cụ Hồ sao mà gần gũi, dễ mến” như lời nhận xét của các mị (các mẹ, các chị).
Lúc này giáo viên không chỉ có già làng và thôn trưởng, mà rất đông bà con trong làng (những người được coi là thạo tiếng Kinh nhất), trong đó có những cô gái Ba Na xinh đẹp đứng lớp, không khí sôi nổi và hiệu quả hẳn lên.
Ngoài học cách giao tiếp, sinh hoạt hằng ngày thì những chú lính vốn “chưa biết yêu là gì” còn bắt các “cô giáo” dạy những câu ngỏ lời, tỏ tình bằng tiếng Ba Na.
Đồng bào không chỉ nghe và làm theo chúng tôi mà còn tự tin, tin tưởng, hòa đồng với bộ đội. Đợt dân vận kết thúc thành công, chúng tôi được khen.
Từ đó, toàn lữ đoàn 234 và Quân đoàn 3 dấy lên phong trào học tiếng dân tộc và thực hiện 4 cùng với nhân dân: “Cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng nói tiếng đồng bào”.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận