Trần Quốc Hoàng (cán bộ phòng tín dụng) do thua bạc đã lập các hợp đồng tín dụng giả (khống) để chiếm đoạt tiền của công ty.
Trong quá trình lập các hợp đồng tín dụng giả, Hoàng đã thực hiện nhiều hành vi gian dối như: lập các hợp đồng vay tiền khống, ký giả chữ ký của người thân hoặc nhờ những người bán vé số ký giả chữ ký của người thân và khách hàng; tự định giá tài sản thế chấp, tự tạo ra các hợp đồng vay tiền có tài sản thế chấp... rồi lợi dụng mối quan hệ quen biết với giám đốc và nhân viên các phòng, ban để rút hơn 45 tỉ đồng của công ty.
Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án cấp sơ thẩm đều xác định hành vi của Trần Quốc Hoàng là hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Các cán bộ thuộc phòng tín dụng, phòng kế toán, thủ quỹ về tội “vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.
Trong vụ án này, Trần Quốc Hoàng là cán bộ phòng tín dụng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình và bằng các thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của công ty mà mình có trách nhiệm quản lý chưa hẳn đã phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà có thể phạm tội “tham ô tài sản”.
Bởi lẽ, phòng tín dụng có chức năng tham mưu cho giám đốc về việc cho vay, sau khi đã thẩm tra đầy đủ các điều kiện cho vay nên có thể nói phòng tín dụng là phòng có chức năng quản lý tài sản của công ty.
Hơn nữa, trong vụ án này cũng không có bất cứ hoạt động tín dụng nào, nên hành vi của các bị cáo khác cũng không phạm tội “vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.
Bởi lẽ, không có hoạt động tín dụng thì cũng không có hành vi vi phạm trong lĩnh vực cho vay được.
Việc để mất tiền trước hết thuộc về những người có chức vụ, quyền hạn trong việc cho vay, kế đó là trách nhiệm của thủ quỹ công ty đã không thực hiện đúng quy chế trong việc chi tiền.
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước cũng kết luận: “Trách nhiệm trong việc cho vay vi phạm điều kiện vay vốn thuộc về lãnh đạo phê duyệt cho vay, trưởng phòng tín dụng, trưởng phòng giao dịch và các cán bộ tín dụng trực tiếp ký trên các hồ sơ vay vốn”.
Riêng phòng kế toán chỉ được nhận một phần hồ sơ cho vay, căn cứ vào quyết định của giám đốc mà ký các phiếu chi giải ngân.
Ngay cả khi các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn xác định hành vi của Trần Quốc Hoàng là hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thì cũng không có tội “vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt động tín dụng”, nếu có thì cũng chỉ có tội “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.
Vấn đề mấu chốt và cũng là dấu hiệu quyết định đến việc xác định tội danh của bị cáo ở chỗ ban giám đốc và các phòng ban có biết rõ các hồ sơ tín dụng của Trần Quốc Hoàng chuyển đến cho phòng kế toán là hồ sơ giả hay không?
Điều này thì ai cũng khẳng định là không. Chẳng ai làm ngơ để Trần Quốc Hoàng lừa đảo chiếm đoạt hơn 45 tỉ đồng của công ty mà mình không được đồng nào, trừ khi họ là đồng phạm với Trần Quốc Hoàng.
Thiết nghĩ tòa án cấp phúc thẩm cần hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại nhằm xác định đúng tội danh đối với Trần Quốc Hoàng và các bị cáo khác trong vụ án nhằm bảo đảm nguyên tắc xét xử đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 4-6-2015, TAND TP.HCM tuyên phạt các bị cáo Phan Minh Anh Ngọc (nguyên tổng giám đốc Công ty Tài chính cao su Việt Nam) 5 năm tù, Võ Thị Hoàng Hồng (nguyên thủ quỹ công ty) 3 năm án treo về tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Bị cáo Trần Quốc Hoàng (nguyên nhân viên phòng tín dụng) lãnh án tù chung thân về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Các bị cáo nguyên là kế toán, thủ quỹ của công ty là Đặng Thị Kim Anh 7 năm tù, Nguyễn Thị Lệ Hằng 5 năm tù, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hồng Hải, Trần Thị Thu Hiền mỗi bị cáo 4 năm tù về tội “vi phạm các quy định trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng”. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận