Cà phê, tín dụng và Brazil

THS NGUYỄN HOÀNG MỸ PHƯƠNG 18/12/2012 04:12 GMT+7

TTCT - Phân tích của chuyên gia Nguyễn Đình Bích về câu chuyện xuất khẩu cà phê của VN (TTCT số 49, ra ngày 9-12-2012) cho thấy nông dân trồng cà phê VN hiện đang trải qua những sự việc mà nông dân trồng cà phê tại Brazil đã trải qua cách đây hơn 20 năm.

Thử xem xét kinh nghiệm của “ông khổng lồ” cà phê này thông qua tìm hiểu một công cụ tài chính của họ.

Phóng to
Một vùng trồng cà phê ở bang Bahia, đông bắc Brazil

Chính sách nông nghiệp của Brazil bắt đầu trải qua sự chuyển đổi khá lớn vào những năm 1970. Vào thời điểm đó, đây là một mô hình chính sách nông nghiệp dựa vào một nền kinh tế được bảo vệ chặt chẽ, phục vụ cho chiến lược thay thế hàng nhập khẩu, nguồn trợ cấp phong phú và dùng giá tối thiểu để đảm bảo thương mại hóa. Nhưng tình trạng mất khả năng trả nợ của nhà nước cộng với sự không ổn định về kinh tế những năm 1980 tại quốc gia này đã dẫn đến sụp đổ chính sách tín dụng nông thôn vào đầu những năm 1990.

Mô hình tín dụng thất bại cùng với sự mở cửa kinh tế nhanh chóng và phi kế hoạch đã dẫn đến khủng hoảng trong khu vực nông nghiệp. Hầu hết nông dân Brazil mất khả năng trả nợ tích lũy qua nhiều mùa vụ, đồng thời đối diện với khủng hoảng thiếu vốn (và trợ cấp tín dụng).

Đầu những năm 1990, do tín dụng bị thu hẹp, hợp đồng giao sau (forward contract) đậu nành đầu tiên đã xuất hiện. Theo đó, những hãng kinh doanh đa quốc gia có điều kiện tiếp cận cơ chế phòng ngừa rủi ro (thông qua các hợp đồng kỳ hạn (1)) và nguồn tín dụng quốc tế rẻ hơn, bắt đầu đóng vai trò cơ bản trong việc cung cấp nguồn lực cho người sản xuất nhằm đảm bảo nguyên liệu thô cho xuất khẩu và cho các nhà máy sản xuất của họ. Đây là cơ chế cơ bản vào thời gian đầu của quá trình chuyển đổi, từ hệ thống cung cấp tín dụng độc quyền ở khu vực công sang hệ thống song đôi - cả khu vực công và tư. Khu vực tư nhân Brazil từ chỗ chỉ chiếm 20% tổng nguồn lực cho nông nghiệp trong những năm 1980, đến năm 2005 đã chiếm tới hơn 70% (2).

Sau nhiều thập niên có mức lạm phát cao và nhiều nỗ lực kiểm soát, Brazil đã thực thi một chương trình ổn định kinh tế với tên gọi Kế hoạch real (đặt theo tên đồng tiền mới real) vào năm 1994 trong thời kỳ nắm quyền của tổng thống Itamar Franco. Gói kinh tế này đã giúp một chu kỳ kinh tế mới bắt đầu với sự tập trung vào nông nghiệp và mang lại kết quả nổi bật trong khu vực này. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu cơ chế chính thức và an toàn hơn, kết quả là Cedula Produto Rural (CPR) ra đời - đây là một loại trái phiếu được người sản xuất (nông dân và hợp tác xã) phát hành dựa vào sản lượng thu hoạch trong tương lai.

Cho đến năm 2010, trong các nguồn tài trợ cho người sản xuất nông nghiệp thì tín dụng ngân hàng chiếm 30%, nguồn quỹ riêng của họ chiếm 30% và CPR chiếm 40% (3).

Phóng to
Một nông dân trong vườn cà phê gần Rio de Janeiro (Brazil) - Ảnh: São João Estate

Phát hành trái phiếu hàng hóa CPR

Khi người sản xuất nông nghiệp đệ trình hồ sơ phát hành CPR, phân tích tín dụng sẽ được thực hiện (do Ngân hàng Brazil - nơi chiếm khoảng 60% tín dụng nông nghiệp của cả hệ thống ngân hàng). Dữ liệu, lịch sử, khả năng sản xuất, nguồn lực, tài sản... được kiểm tra và sau đó xác định hạn mức trần phù hợp với mức độ rủi ro tín dụng. Hạn mức tín dụng mà người phát hành CPR nhận được dao động từ 30-70% số lượng hoặc chi phí thu hoạch trong tương lai. Hạn mức này còn phụ thuộc từng loại nông sản và giai đoạn sản xuất (chuẩn bị, gieo hạt, trồng, thu hoạch, lưu trữ...).

Thông qua việc phát hành CPR, người sản xuất nông nghiệp sẽ bán nông sản trước khi thu hoạch (bằng cách thế chấp sản lượng thu hoạch trong tương lai), để nhận trước nguồn tài chính hoặc các sản phẩm đầu vào cần thiết cho sản xuất. Người sản xuất khi phát hành CPR sẽ cam kết giao hàng đúng số lượng vào một ngày xác định trong tương lai và tại địa điểm xác định, người mua sẽ thanh toán trước một khoản tiền tương đương với số lượng hàng hóa. Hoạt động này không có gì khác so với bán trước hàng hóa (sẽ có trong tương lai).

CPR tài chính mặc dù rất giống với CPR hàng thực, nhưng có một khác biệt cơ bản là: thanh toán không phải là giao hàng thực, mặc dù vẫn đòi hỏi phải đảm bảo bằng sản phẩm nông nghiệp tương tự yêu cầu của CPR giao nhận hàng thực. Điều này cho phép hoạt động giao dịch phát triển với sự tham gia của những tổ chức tài chính, tránh cho các tổ chức này khỏi sự khó khăn khi phải giữ hàng hóa vì hãy thử tưởng tượng 10.000 gia súc hoặc 10 xe tải đậu nành sẽ xuất hiện trước cao ốc văn phòng của họ. Hơn nữa, luật cũng cấm các tổ chức này nắm giữ hợp đồng hoặc trái phiếu đòi hỏi phải giao hàng thực trong danh mục đầu tư.

Mô hình CPR

Chính phủ Brazil rất ủng hộ sự phát triển CPR và việc phát hành CPR được kết hợp với các tổ chức khác, tạo nên một mô hình phát triển bền vững cho ngành nông nghiệp Brazil. Mô hình này liên quan đến một cơ quan nhà nước (sở giao dịch hàng hóa), các ngân hàng thương mại, trong đó có một ngân hàng chính đóng vai trò nhà tạo lập thị trường, các tổ chức đầu tư tư nhân và sở giao dịch kỳ hạn trong nước. Đây là một mô hình thú vị cho những nước đang phát triển khác muốn tăng khả năng cung cấp tín dụng cho xuất khẩu cà phê. Để có thể thực hiện thành công mô hình này, đòi hỏi sự tham gia và tin tưởng lẫn nhau hoàn toàn của các bên có liên quan, đặc biệt là sự tham gia của nhà nước...

Trong tất cả các quốc gia trồng cà phê, có thể nói Brazil là quốc gia mà nông dân sử dụng công cụ quản trị rủi ro dựa vào thị trường nhiều nhất. Điều này có thể do: Thứ nhất, nông trại quy mô vừa và đồn điền lớn chiếm phần lớn thị phần sản xuất. Brazil có 221.000 nông trại (trong đó có 30% nông trại có quy mô trên 10ha) và 70 hợp tác xã. Ngoài ra, nước này có khoảng 1.500 doanh nghiệp rang xay, 9 nhà máy sản xuất cà phê hòa tan và 200 công ty xuất khẩu cà phê (4). Trong khi đó, quy mô trang trại cà phê ở VN phần lớn (hơn 80%) từ 0,2-2ha (5).

Người sản xuất nông nghiệp nhận tín dụng ngân hàng dựa vào tài sản thế chấp là mùa vụ trong tương lai. Tại Brazil có một hệ thống giúp đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ giữa người cho vay và người phát hành CPR, trong đó họ chia sẻ kiến thức về các giao dịch, sản lượng thu hoạch trung bình trong các vùng, sản lượng tiềm năng. Hệ thống này cho phép người cho vay có cơ hội theo dõi tình trạng của sản lượng thu hoạch trong tương lai. Tài sản thế chấp và đất đai được đăng ký với tên của người sở hữu thông qua đăng ký CPR và có sự giám sát hoặc của tổ chức độc lập hoặc người cho vay. Giám sát chặt chẽ bắt buộc thực hiện tại các giai đoạn sản xuất. Các cuộc khảo sát trước khi gieo hạt, các cuộc viếng thăm hằng tháng, và kiểm tra liên tục trong suốt thời gian thu hoạch để chắc chắn rằng không xảy ra sai sót nào.

Nhưng yếu tố then chốt đảm bảo cho sự thành công của CPR tại Brazil là hệ thống luật lệ thi hành: những quyết định được thực hiện hiệu quả, trong vòng một đến hai ngày. Vì vậy, người đi vay có rất ít cơ hội từ chối hoặc tranh cãi về các quyết định được thực hiện thông qua quy trình bắt buộc thi hành.

Theo quy định, người sở hữu CPR có quyền giám sát tài sản thế chấp để phát hành CPR, họ kiểm soát quá trình gieo hạt, phát triển vụ mùa, thu hoạch và lưu trữ của người đi vay. Chẳng hạn như bộ phận phụ trách thị trường Brazil của Công ty BASF thực hiện việc giám sát thông qua giám đốc bán hàng. Giám đốc bán hàng sẽ làm việc với những người đi vay, và những người đi vay này cũng là khách hàng của công ty. Trong một số trường hợp sẽ có tổ chức đại diện đặc biệt, nhất là đối với những vùng xa xôi mà ở đó người sở hữu CPR không đặt trụ sở văn phòng. Nhưng thường là chỉ những người đi vay nào không đáng tin cậy mới cần sự chú ý giám sát (chi phí giám sát tại Brazil thông qua thương lượng và có thể dao động từ 1-100 USD/ha tùy thuộc khu vực trồng, vị trí và khoảng cách với văn phòng giám sát, loại sản phẩm...).

Kinh nghiệm của Brazil cho thấy nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước thì việc giới thiệu loại công cụ tài chính như thế này sẽ là điều không thể, đặc biệt là sự hỗ trợ thông qua việc thiết lập những quy định pháp luật rõ ràng.

“Nghệ thuật găm hàng”

Khi giá cà phê tiếp tục sụt giảm, nông dân trồng cà phê ở Brazil đã lập tức găm hàng, hạn chế khối lượng giao dịch (theo Công ty môi giới và thương mại Flavour Coffee và Cazarini).

Trên sàn New York, giá cà phê Arabica kỳ hạn đã giảm 33% trong năm nay, một phần do sản lượng cà phê của Brazil đạt sản lượng kỷ lục hơn 50 triệu bao (1 bao bằng 60kg), nhưng xuất khẩu trong năm 2012 không vượt qua được mức 30 triệu bao (năm 2011 quốc gia này xuất khẩu 33,5 triệu bao). Lượng cà phê tồn kho trong các kho hàng được sàn ICE giám sát là 2,43 triệu bao, mức cao nhất kể từ tháng 4-2010, theo Hãng tin Bloomberg.

Chính phủ Brazil hồi cuối tháng 4 đã thông qua gói tín dụng trị giá 900 triệu real (tương đương 477,5 triệu USD) cho nông dân vay nhằm tạm trữ cà phê trong vụ tới. Theo Ủy ban Cà phê quốc gia (CNC), gói tín dụng trên được lấy từ quỹ dự phòng của lĩnh vực cà phê có tên Funcafe. Nhưng gói tín dụng này vẫn còn ít hơn so với mức 1,05 tỉ USD của năm 2010. Khoản tiền này dành cho người trồng cà phê vay với lãi suất cực thấp là 6,75%/năm, được CNC triển khai tới nông dân qua sự giám sát của Bộ Tài chính Brazil, Bộ Kế hoạch và Ngân hàng Trung ương. Theo CNC, khoản vay lãi suất thấp sẽ giúp người trồng cà phê tránh việc tung hàng quá nhiều ra thị trường và gây sức ép lên giá.

______________

(1): Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng giữa hai bên - người mua và người bán - để mua hoặc bán hàng hóa cụ thể vào một ngày trong tương lai với giá đã thỏa thuận ngày hôm nay. Có thể nói hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng giao sau được tiêu chuẩn hóa và tuân theo những quy định hợp đồng chặt chẽ (do sở giao dịch quy định).
(2): Eduardo L. Leão de Sousa và Fernando L. Pimentel, 2005:4
(3): Agrarian Markets Development Institute (AMDI, Ukraine) (2011), New Instruments of Financing under Future Crops - The Brazilian Experience of a CPR System: Opportunities and Issues for Ukraine.
(4): Chi, Trần Thị Quỳnh (2007), Tổng kết hội thảo triển vọng phát triển và chất lượng cà phê 2007.
(5): Ngân hàng Thế giới, 2004, theo phân tích sơ bộ của Tổng cục Thống kê trong nghiên cứu không công bố năm 2002.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận