Bệnh dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết: Ảnh minh họa. Nguồn: cnn.com
Dịch hạch là bệnh truyền nhiễm cấp tính do trực khuẩn Yersinia pestis gây ra, lây truyền chủ yếu bằng đường máu (do bọ chét đốt). Bệnh cảnh lâm sàng là tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc toàn thân nặng. Tổn thương hạch đặc hiệu, phổi và một số cơ quan khác. Bệnh dịch hạch được xếp vào bệnh "tối nguy hiểm" và có ổ bệnh thiên nhiên.
Đường lây của bệnh
Bệnh dịch hạch có 4 đường lây, trong đó chủ yếu lây qua đường máu.
Đường máu: Lây qua vết đốt của côn trùng, chủ yếu là do bọ chét Xenopsylla cheopis. Bọ chét hút máu làm lan truyền bệnh trong các giống chuột và từ chuột sang người.
Đường tiêu hoá: Thực phẩm, nước bị ô nhiễm do chuột trực tiếp gieo rắc mầm bệnh vào. Đường lây này trên thực tế ít nguy hiểm vì trực khuẩn dịch hạch dễ bị chết khi đun sôi, nấu chín.
Đường hô hấp: Từ bệnh nhân bị dịch hạch thể phổi có thể lây trực tiếp cho người xung quanh qua các giọt đờm, nước bọt bắn ra khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyện...
Đường da, niêm mạc: Khi da trên cơ thể người bị trầy xước, tổn thương các vi khuẩn từ động vật nhiễm bệnh có thể xâm nhập qua da gây bệnh, những trường hợp này rất hiếm gặp.
Triệu chứng bệnh dịch hạch
Đối với thể hạch là thể phổ biến nhất: Ở thời kỳ tiên phát thời gian ủ bệnh trung bình 2-5 ngày, ngắn nhất vài giờ, dài nhất 8-10 ngày, ở giai đoạn này bệnh chưa có biểu hiện. Nhưng khi đến thời kỳ khởi phát, bệnh khởi phát đột ngột từ người đang khoẻ mạnh tự nhiên cảm thấy mệt mỏi, khó chịu, nhức đầu, chóng mặt, đau khắp người, buồn nôn, sốt cao, thường có gai rét, hoặc rét run. Có bệnh nhân đau nhiều ở vùng sắp sưng hạch, sau vài giờ hoặc 1-2 ngày bệnh chuyển sang giai đoạn toàn phát.
Khi bệnh chuyển sang giai đoạn toàn phát sẽ dẫn đến viêm hạch ở khu vực liên quan đến nơi bọ chét đốt. Vị trí hạch viêm phổ biến nhất là vùng đùi bẹn chiếm (60-80%) rồi đến nách (14-20%), ở cổ, dưới hàm, dọc cơ ức đòn chũm (15-18%). Hạch sưng to, rất đau, hạch viêm sẽ hoá mủ, tự vỡ, chảy dịch mủ và máu, chất hoại tử và lâu liền vết thương, nếu thành sẹo sẽ bị co rúm. Nếu được điều trị sớm, đúng phác đồ hạch sẽ thu nhỏ lại.
Khi toàn thân người bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc nặng sẽ có những triệu chứng: Sốt cao liên tục hoặc dao động, mức độ sốt có liên quan đến mức độ nặng nhẹ của bệnh; mạch thường nhanh, thở nhanh; nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi, buồn nôn, nếu nặng hơn thì li bì hốt hoảng, mê sảng; nước tiểu ít, sẫm màu, phân có thể lỏng...; da niêm mạc xung huyết, mặt đỏ, mắt đỏ, môi khô, lưỡi bẩn, trắng...
Thể nhiễm khuẩn huyết: Đối với thể này, bệnh khởi phát đột ngột, rất cấp tính ngay trong lúc hạch ngoại vi chưa sưng. Tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc rất nặng: Sốt cao 40-410C, nhiều cơn rét run. Bệnh nhân kích động, cuồng sảng hoặc li bì. Nôn nhiều, tiêu lỏng, bụng chướng, có rối loạn về tim mạch và hô hấp. Xuất huyết da, niêm mạc, phủ tạng còn gọi là "Dịch hạch đen". Khi tử vong cao, chết nhanh trong 1-2 ngày đầu là "Dịch hạch tối cấp".
Ở thể thể nhiễm khuẩn huyết thứ phát thường xuất hiện sau thể hạch, thể phổi tiên phát không được điều trị, khi bệnh nhân đã giảm sức đề kháng. Bệnh thường nặng, diễn biến cấp tính nhưng thường ít rầm rộ hơn so với thể tiên phát.
Thể phổi: Thời gian ủ bệnh rất ngắn, chỉ vài giờ. Bệnh khởi phát rất đột ngột, sốt cao 40-410C kèm rét run, mạch nhanh, huyết áp giảm. Bệnh nhân thấy mệt mỏi, nhức đầu, khó chịu ngày càng tăng. Chỉ sau vài giờ đến 1 ngày vào giai đoạn toàn phát với các triệu chứng toàn thân nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng lên. Các triệu chứng về hô hấp có thể nhận thấy rõ, như: Tức ngực, khó thở, thở nhanh, nông, ho có đờm lúc đầu trong về sau ho nhiều ra máu màu hồng soi có nhiều vi khuẩn. Triệu chứng thực thể ngược lại nghèo nàn, ít khi nghe được ran bệnh lý, chụp X-quang hình ảnh viêm phổi hoặc nhiều bóng mờ rải rác. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh tiến triển nhanh chóng thành phù phổi cấp, khó thở tăng, rối loạn tim mạch nặng nề. Tử vong nhanh trong 1 -2 ngày. Đối với thể phổi thứ phát thường gặp hơn thể phổi tiên phát và xuất hiện sau các thể khác (thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết) nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Tiên lượng bệnh thường nặng.
Thể da: Tại vùng vi khuẩn xâm nhập, phát triển thành nốt dát, sau thành mụn nước rồi mụn mủ lẫn máu (đôi khi màu đen), ấn vào rất đau. Xung quanh mụn mủ là tổ chức da xung huyết, thâm nhiễm nổi gờ cao lên khỏi nền da lành. Sau đó mụn vỡ tạo thành vết loét, đáy vết loét là nền thâm nhiễm màu vàng, mặt vết loét phủ vẩy đen (giống bệnh than), vết loét lâu liền và lâu thành sẹo.
Cách phòng bệnh
Thường xuyên vệ sinh môi trường, nhà ở sạch sẽ, cất giữ lương thực cho người, gia súc kín đáo để chuột và các loài gặm nhấm không có nguồn thực phẩm và môi trường thuận lợi để sống, sinh sôi. Đeo găng tay khi xử lý động vật chết để tránh tiếp xúc da với vi khuẩn dịch hạch (nếu có). Thực hiện các biện pháp diệt chuột, bọ chét, phá hủy nơi sinh sản của chuột (chú ý diệt bọ chét trước, diệt chuột sau). Khi thấy nhiều chuột chết bất thường phải báo ngay cho cơ quan y tế gần nhất, không diệt chuột khi đang xảy ra dịch ở chuột và người.
Khi thấy các triệu chứng nghi dịch hạch như sốt, nổi hạch người bệnh phải đến cơ sở y tế để được tư vấn, khám điều trị cách ly tránh lây lan cho mọi người.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận