1-Thuốc tăng huyết áp (Thuốc chẹn beta)
Chúng gồm Atenolol (Tenormin), carvedilol (Coreg), metoprolol (Lopressor, Toprol), propranolol (Inderal), sotalol (Betapace), timolol (Timoptic) và một số loại thuốc khác có tên hóa học kết thúc bằng "-olol."
Thuốc chẹn beta làm chậm nhịp tim và giảm huyết áp, và thường được kê đơn cho bệnh cao huyết áp, suy tim sung huyết và nhịp tim bất thường. Chúng cũng được sử dụng để điều trị đau ngực (đau thắt ngực), đau nửa đầu, run tay chân và ở dạng thuốc nhỏ mắt, một số loại bệnh tăng nhãn áp. Thuốc chẹn beta được cho là gây ra các vấn đề về trí nhớ bằng cách can thiệp ("ngăn chặn") hoạt động của các sứ giả hóa học quan trọng trong não, bao gồm norepinephrine và epinephrine.
2-Thuốc kiểm soát (Anticholinergics)
Những loại thuốc này được sử dụng để làm giảm các triệu chứng của bàng quang hoạt động quá mức, và giảm các cơn tiểu tiện không tự chủ, cảm giác muốn đi tiểu đột ngột và mạnh đến mức bạn thường không thể đi vệ sinh kịp thời. Nhóm gồm: Darifenacin (Enablex), oxybutynin (Ditropan XL, Gelnique, Oxytrol), solifenacin (Vesicare), tolterodine (Detrol) và trospium (Sanctura). Một sản phẩm oxybutynin khác, Oxytrol for Women, được bán không cần kê đơn. Những loại thuốc này ngăn chặn hoạt động của acetylcholine, một chất truyền tin hóa học trung gian tất cả các loại chức năng trong cơ thể. Nguy cơ mất trí nhớ tăng cao khi dùng thuốc trong thời gian ngắn, hoặc dùng chung với các thuốc khác.
3-Thuốc kháng histamine chống dị ứng, cảm, say tàu xe… (Thế hệ đầu tiên)
Nhóm gồm: Brompheniramine (Dimetane), carbinoxamine (Clistin), chlorpheniramine (Chlor-Trimeton), clemastine (Tavist), diphenhydramine (Benadryl) và hydroxyzine (Vistaril). Những loại thuốc này được sử dụng để làm giảm hoặc ngăn ngừa các triệu chứng dị ứng hoặc cảm lạnh thông thường. Một số thuốc kháng histamine cũng được sử dụng để ngăn ngừa say tàu xe, buồn nôn, nôn mửa và chóng mặt, và để điều trị chứng lo âu hoặc mất ngủ.
Những loại thuốc này (kê đơn và không kê đơn) ức chế hoạt động của acetylcholine, một chất truyền tin hóa học trung gian một loạt các chức năng trong cơ thể. Trong não, chúng ức chế hoạt động của trung tâm trí nhớ và học tập, có thể dẫn đến mất trí nhớ.
4-Thuốc chống lo âu (Benzodiazepines)
Alprazolam (Xanax), chlordiazepoxide (Librium), clonazepam (Klonopin), diazepam (Valium), flurazepam (Dalmane), lorazepam (Ativan), midazolam (Versed), quazepam (Doral), temazepam (Restoril), temazepam (Restoril) ) là những sản phẩm thuộc nhóm hay được tin dùng.
Benzodiazepines được sử dụng để điều trị nhiều loại rối loạn lo âu, kích động, mê sảng và co thắt cơ, và để ngăn ngừa co giật. Bởi vì benzodiazepine có tác dụng an thần, chúng đôi khi được sử dụng để điều trị chứng mất ngủ và lo lắng có thể đi kèm với trầm cảm. Benzodiazepines làm giảm hoạt động các bộ phận quan trọng của não, bao gồm cả những bộ phận liên quan đến việc chuyển các sự kiện từ trí nhớ ngắn hạn sang dài hạn.
5-Thuốc giảm cholesterol (Statin)
Chúng là những thuốc Atorvastatin (Lipitor), fluvastatin (Lescol), lovastatin (Mevacor), pravastatin (Pravachol), rosuvastatin (Crestor) và simvastatin (Zocor).
Statin được sử dụng để điều trị cholesterol cao. Thuốc làm giảm mức cholesterol trong máu có thể làm giảm trí nhớ và các quá trình tâm thần khác, bằng cách làm giảm mức cholesterol trong não. Trong não, những lipid này rất quan trọng đối với sự hình thành các kết nối giữa các tế bào thần kinh - các liên kết cơ bản của trí nhớ và học tập. (Trên thực tế, não chứa 1/4 lượng cholesterol của cơ thể).
6-Thuốc chống động kinh
Acetazolamide (Diamox), carbamazepine (Tegretol), ezogabine (Potiga), gabapentin (Neurontin), lamotrigine (Lamictal), levetiracetam (Keppra), oxcarbazepine (Trileptal), pregabalin (Lyrica), ruble ), axit valproic (Depakote) và zonisamide (Zonegran) là những thuốc thuộc nhóm trên.
Từ lâu được sử dụng để điều trị động kinh, những loại thuốc này ngày càng được kê đơn cho các chứng đau dây thần kinh, rối loạn lưỡng cực, rối loạn tâm trạng và hưng cảm. Thuốc chống co giật được cho là có thể hạn chế các cơn co giật, bằng cách làm giảm dòng tín hiệu trong hệ thần kinh trung ương (CNS). Tất cả các loại thuốc làm giảm tín hiệu trong thần kinh trung ương có thể gây mất trí nhớ.
7-Thuốc chống trầm cảm ( TCA) (Thuốc chống trầm cảm ba vòng)
Amitriptyline (Elavil), clomipramine (Anafranil), desipramine (Norpramin), doxepin (Sinequan), imipramine (Tofranil), nortriptyline (Pamelor), protriptyline (Vivactil) và trimipramine (Surmontil) là nhóm thuốc chống trầm cảm. TCA được kê đơn cho bệnh trầm cảm và ngày càng tăng, rối loạn lo âu, rối loạn ăn uống, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, đau mãn tính, cai thuốc lá và một số rối loạn qua trung gian hormone, chẳng hạn như đau bụng kinh nghiêm trọng và bốc hỏa.
TCA được cho là gây ra các vấn đề về trí nhớ bằng cách ngăn chặn hoạt động của serotonin và norepinephrine - hai trong số những sứ giả hóa học quan trọng của não.
8-Thuốc giảm đau gây nghiện
Còn được gọi là thuốc giảm đau opioid, những loại thuốc này được sử dụng để giảm đau mãn tính từ trung bình đến nặng, chẳng hạn như cơn đau do viêm khớp dạng thấp.
Chúng gồm: Fentanyl (Duragesic), hydrocodone (Norco, Vicodin), hydromorphone (Dilaudid, Exalgo), morphin (Astramorph, Avinza) và oxycodone (OxyContin, Percocet). Các loại thuốc này có nhiều dạng khác nhau, bao gồm viên nén, dung dịch tiêm, miếng dán thẩm thấu qua da và thuốc con nhộng. Những loại thuốc này hoạt động bằng cách ngăn chặn luồng tín hiệu đau trong hệ thần kinh trung ương, và bằng cách làm giảm phản ứng cảm xúc của một người đối với cơn đau. Cả hai hành động này đều được trung gian bởi các sứ giả hóa học cũng liên quan đến nhiều khía cạnh của nhận thức. Vì vậy, việc sử dụng những loại thuốc này có thể ảnh hưởng đến trí nhớ dài hạn và ngắn hạn, đặc biệt là khi sử dụng trong thời gian dài.
9-Thuốc điều trị Parkinson (liệt rung)
Những loại thuốc này được sử dụng để điều trị bệnh Parkinson, một số khối u tuyến yên và ngày càng tăng, hội chứng chân không yên (RLS). Ví dụ: Apomorphine (Apokyn), pramipexole (Mirapex) và ropinirole (Requip).
Những loại thuốc này kích hoạt các con đường tín hiệu cho dopamine, một chất truyền tin hóa học liên quan đến nhiều chức năng của não, bao gồm động lực, trải nghiệm niềm vui, kiểm soát vận động tốt, học tập và trí nhớ. Kết quả là, các tác dụng phụ chính có thể bao gồm mất trí nhớ, lẫn, ảo tưởng, ảo giác, buồn ngủ và các hành vi cưỡng chế như ăn quá nhiều và chơi cờ bạc.
10-Thuốc hỗ trợ ngủ (thuốc an thần - gây ngủ Nonbenzodiazepine)
Eszopiclone (Lunesta), zaleplon (Sonata) và zolpidem (Ambien) hay được kê đơn.
Đôi khi chúng được gọi là thuốc "Z", những loại thuốc này được sử dụng để điều trị chứng mất ngủ và các vấn đề về giấc ngủ khác. Chúng cũng được kê đơn cho những trường hợp lo lắng nhẹ.
Chúng tạo ra các tác dụng phụ và các vấn đề về nghiện và cai nghiện. Thuốc "Z" cũng có thể gây mất trí nhớ và đôi khi gây ra các hành vi nguy hiểm hoặc kỳ lạ, chẳng hạn như nấu một bữa ăn hoặc lái xe - mà không có hồi ức về sự kiện khi tỉnh dậy.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận